Những điểm bất cập của Công ước Viên 1980 mà Việt Nam cần lưu ý

07/09/2010    3279

Nghiên cứu thực tiễn áp dụng CISG tại các quốc gia thành viên cho thấy mặc dù việc gia nhập CISG hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích lớn, khi gia nhập các quốc gia cũng cần lưu ý một số điểm sau:

(i) Các quy định của CISG không bao trùm mọi vấn đề pháp lý có liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Dù rất hữu ích, với phạm vi hiện tại của mình, CISG không giải quyết tất cả các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì vậy, để những hợp đồng như thế này được ký kết và triển khai thuận lợi và an toàn về pháp lý, các bên ký kết hợp đồng vẫn đồng thời phải quan tâm đến các nguồn luật khác.

Ví dụ CISG không điều chỉnh các vấn đề sau: trách nhiệm của các bên trong giai đoạn đàm phán, điều kiện hiệu lực của hợp đồng, vấn đề ủy quyền, vấn đề thời hiệu, vấn đề chuyển quyền sở hữu của hàng hóa. Vì thế, bên cạnh Công ước Viên 1980, vẫn cần một nguồn luật khác (thường là luật quốc gia) để điều chỉnh các vấn đề mà Công ước Viên 1980 không đề cập đến. Vì thế, trong Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mẫu của phòng Thương mại quốc tế ICC (ấn bản của ICC số 556 năm 1997) gợi ý quy định điều khoản “Luật áp dụng” trong hợp đồng như sau: “Bất kỳ vấn đề nào liên quan đến hợp đồng này mà không được qui định một cách rõ ràng hay ngầm hiểu trong các điều khoản của hợp đồng thì sẽ được điều chỉnh bởi Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về mua bán hàng hoá quốc tế, và nếu những vấn đề đó cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước thì sẽ tham chiếu tới Luật của quốc gia nơi người bán đặt trụ sở kinh doanh”. Ngoài ra, một xu hướng hiện nay của các trọng tài quốc tế là áp dụng Bộ Nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và các Nguyên tắc về luật hợp đồng Châu Âu (PECL) để bổ sung cho các vấn đề mà CISG không điều chỉnh.

Điều này nếu không làm rõ có thể dẫn tới những lầm tưởng ở cả doanh nghiệp lẫn người làm luật, khiến các chủ thể này lơ là trong việc tìm hiểu và áp dụng các văn bản pháp luật cần thiết khác, và kết quả là có thể bị động khi xảy ra tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ngay cả khi đã có CISG.

Ngoài ra, theo thông lệ hiện nay trong giao dịch buôn bán quốc tế, mỗi ngành mỗi lĩnh vực đều có những điều khoản hợp đồng chuẩn (Hợp đồng mẫu) đặc thù cho mua bán một số loại hàng hóa như dầu, gạo, hoa quả tươi, cà phê… và thường thì các bên đều không muốn từ bỏ những điều khoản đã được sử dụng rộng rãi và quen thuộc này. Do đó cho dù Việt Nam có gia nhập CISG thì rất có thể CISG vẫn sẽ không điều chỉnh những hợp đồng mua bán quốc tế loại này.

(ii) CISG chưa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề pháp lý mới phát sinh trong thương mại quốc tế

Được soạn thảo và thông qua từ cách đây 30 năm, CISG chưa dự đoán và do đó chưa đưa vào các quy định của mình những vấn đề pháp lý mới phát sinh sau này, ví dụ các quy phạm pháp lý liên quan đến thương mại điện tử.

Việc sửa đổi Công ước để bổ sung các nội dung pháp lý này có lẽ còn cần một thời gian dài nữa (Công ước Viên 1980 không có cơ chế sửa đổi, điều chỉnh thường xuyên để phù hợp với sự thay đổi cán cân lợi ích của các thành viên và do đó mỗi thay đổi trong Công ước sẽ phải được sự đồng ý, phê chuẩn của tất cả các thành viên). Vì vậy các doanh nghiệp phải bằng lòng với nội dung hiện tại của CISG và vẫn cần những hệ thống pháp luật khác để xử lý các vấn đề mới dù đã chọn CISG cho hợp đồng của mình.

(iii) Dù thành công ở hầu hết các nước thành viên, ở một vài nước khác, CISG không đạt được những thành công như mong đợi

Điển hình nhất là tại Hoa Kỳ, CISG đã không gây được tiếng vang và không được sử dụng với tần suất như mong đợi (như đã phân tích ở trên). Trường hợp của Hoa Kỳ tất nhiên chỉ là ngoại lệ trong số rất nhiều nước đã áp dụng thành công CISG nhưng cũng là điều mà chúng ta cần lưu ý. Việt Nam có lẽ sẽ không rơi vào tình trạng tương tự do các quy định pháp luật hợp đồng thương mại hiện hành đã được soạn thảo với tham khảo kỹ lưỡng từ CISG. Tuy nhiên, lưu ý về trường hợp của Hoa Kỳ sẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với đối tác Hoa Kỳ. Có thể việc gia nhập Công ước này không mang lại nhiều lợi ích như suy đoán đối với các hợp đồng với đối tác này, đặc biệt khi tranh chấp được xét xử tại Hoa Kỳ.

(vi) Dù rất nhiều đối tác thương mại lớn trên thế giới đã là thành viên CISG, vẫn còn một số nước khác chưa gia nhập Công ước này

Như đã nêu, dù CISG có số lượng thành viên đông đảo, bao gồm những đối tác thương mại lớn trên thế giới, vẫn còn một số đối tác quan trọng chưa tham gia Công ước này (đáng kể nhất là Vương quốc Anh và các nước khu vực ASEAN).

Điều có thể thấy tương đối rõ là các nước chưa gia nhập Công ước Viên 1980 có lẽ đều có những lý do riêng của mình và thường không phải do Công ước đưa lại những bất lợi về mặt nội dung mà chủ yếu do những nguyên nhân khác như truyền thống pháp luật “bảo thủ” khó chấp nhận cái thay đổi, dù là tốt, hoặc pháp luật nội địa đã nội luật hóa CISG tới mức họ không cần tham gia Công ước này.

Và vì vậy CISG sẽ không phát huy hiệu quả trong những trường hợp hợp đồng mua bán được ký kết giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp đối tác thuộc nước chưa gia nhập CISG.

(v) Để CISG có hiệu quả ở Việt Nam, cần nhiều nỗ lực tuyên truyền, phổ biến về CISG ở Việt Nam

Dù rất phổ biến trong thương mại quốc tế và nhiều nguyên tắc quan trọng đã được đưa vào pháp luật Việt Nam, nội dung Công ước Viên 1980 nhìn chung còn khá mới mẻ đối với hệ thống pháp luật, tư pháp và trọng tài Việt Nam. Vì vậy các doanh nghiệp, tòa án, trọng tài ở Việt Nam cần có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu, hiểu rõ khi áp dụng CISG trong các quan hệ giao dịch thương mại quốc tế. Hiện nay tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về nội dung CISG cũng như thực tiễn áp dụng CISG trên thế giới để áp dụng tại Việt Nam.  Điều này khiến việc diễn giải, áp dụng CISG trong thực tế của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.

Trong khi đó hệ thống giáo dục pháp luật của Việt Nam nói chung (ngoại trừ một số rất ít trường đại học chuyên ngành luật, hợp tác với nước ngoài) cũng chưa có nội dung nào giới thiệu, đào tạo chuyên sâu về CISG. Các doanh nghiệp, nhà thực hành luật Việt Nam cũng chưa có diễn đàn nào riêng để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về CISG như tại nhiều nước khác trên thế giới. Điều này cũng sẽ làm giảm sức mạnh, tiếng nói của các doanh nghiệp Việt Nam, và khả năng xét xử của tòa án, trọng tài tại Việt Nam khi có tranh chấp liên quan đến CISG.

Ngoài ra, Công ước 1980 hiện được lưu hành theo 6 thứ tiếng (không phải  tiếng Việt), và điều này có thể gây khó khăn khi áp dụng Công ước (đặc biệt khi chúng ta hiểu không đúng hoặc không đủ ý nghĩa hàm chứa trong các quy định cụ thể).

Vì vậy để CISG thực sự có hiệu quả khi Việt Nam gia nhập Công ước này, những nỗ lực tuyên truyền và nghiên cứu về nội dung CISG cần được thực hiện thường xuyên liên tục.

Có thể nói nếu như Việt Nam có thể thu rất nhiều lợi ích khi gia nhập CISG, vẫn tồn tại những vấn đề cần được lưu ý để có thể tận dụng các thế mạnh và lợi ích của CISG. Cần lưu ý rằng tất cả những bất cập nói trên của CISG không phải là những vấn đề về mấu chốt về nội dung mà chủ yếu liên quan đến đến hình thức, phạm vi áp dụng của Công ước này.