Thủ tục gia nhập theo quy định của CISG

07/09/2010    3030

Theo quy định tại Phần thứ tư của CISG thì thủ tục để một quốc gia gia nhập Công ước này đơn giản và dễ dàng, không phải qua quá trình phê duyệt, phê chuẩn. Cụ thể, cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia muốn gia nhập CISG chỉ cần đệ trình văn bản gia nhập và đưa ra các tuyên bố bảo lưu (nếu có).
Theo Điều 100 Công ước thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng sau 12 tháng kể từ ngày văn bản gia nhập Công ước được đệ trình. Như vậy, ví dụ nếu tháng 12/2010, Chính phủ Việt Nam đệ trình văn bản gia nhập cho Tổng thư ký của Liên Hợp Quốc (người giữ lưu chiểu Công ước) thì Công ước sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày 01/01/2012. Khoảng thời gian 1 năm này là cần thiết và hợp lý để Việt Nam thực hiện việc tuyên truyền và chuẩn bị cho việc áp dụng CISG tại Việt Nam.

Các bảo lưu

Theo Điều 99 Công ước thì các nước tham gia hay gia nhập Công ước này không có quyền đưa ra các bảo lưu riêng và nếu có bảo lưu thì chỉ bảo lưu trong các trường hợp mà Công ước cho phép.:

Cụ thể, CISG cho phép các quốc gia thành viên thực hiện một số bảo lưu sau:

  • Bảo lưu phần thứ hai hay phần thứ ba của CISG (Bảo lưu theo Điều 92):

Bảo lưu này cho phép một quốc gia thành viên không áp dụng CISG cho vấn đề thiết lập hợp đồng (phần thứ hai của CISG) hoặc thực hiện hợp đồng (phần thứ ba của CISG). Việc đưa ra bảo lưu này nhằm mục đích dành cho các quốc gia là thành viên của hai Công ước La Haye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình quyền quyết định việc từ bỏ một trong hai Công ước nói trên và tham gia vào CISG. Bảo lưu này cũng nhằm phù hợp với mong muốn của các quốc gia Bắc Âu (Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch) không tham gia vào phần thứ ba của CISG vì giữa các quốc gia này đã có luật thống nhất về vấn đề này.

Việt Nam không rơi vào các tình huống như vậy và cũng không có lý do pháp lý hay kinh tế cần thiết nào để phải bảo lưu Phần thứ hai và/hoặc Phần thứ ba của CISG (như đã phân tích trong phần đối chiếu nội dung CISG với pháp luật dân sự, thương mại Việt Nam về hợp đồng mua bán). Vì vậy, Việt Nam không nên và không cần thực hiện bảo lưu này.

  • Bảo lưu chỉ áp dụng CISG trên một số phần lãnh thổ của quốc gia thành viên (Bảo lưu theo điều 93)

Bảo lưu được thiết kế chủ yếu dành cho các quốc gia liên bang (với các khu vực lãnh thổ tương đối độc lập với nhau).
Là quốc gia đơn nhất về hành chính và kinh tế, Việt Nam không cần thực hiện bảo lưu này.

  • Bảo lưu không áp dụng CISG đối với các quốc gia đã có luật chung thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế (bảo lưu theo điều 95)

Bảo lưu này cho phép hai hay nhiều quốc gia đã có những quy tắc pháp lý chung hoặc giống nhau áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được bảo lưu không áp dụng CISG tại các quốc gia này.

Đan Mạch, Phần Lan, Na-uy và Thụy Điển đã thực hiện bảo lưu này vì giữa các quốc gia Bắc Âu này đã có luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế.
Vì Việt Nam hiện nay không tham gia vào một điều ước khu vực nào về thống nhất luật mua bán hàng hóa quốc tế nên hoàn toàn không cần phải thực hiện bảo lưu này.

  • Bảo lưu không áp dụng Điều 1.1 CISG (Bảo lưu theo Điều 95)

Điều 1.1.b CISG quy định áp dụng CISG khi các quy phạm tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến luật của một quốc gia thành viên).

Hoa Kỳ, Singapore, Cộng hòa Séc và Trung Quốc đã thực hiện bảo lưu này. Tòa án Hoa Kỳ (quốc gia thực hiện bảo lưu theo điều 95) khi áp dụng quy phạm xung đột của Hoa Kỳ mà dẫn chiếu đến pháp luật Hoa Kỳ thì sẽ áp dụng pháp luật Hoa Kỳ chứ không áp dụng CISG. Tòa án Nhật Bản (quốc gia không thực hiện bảo lưu theo điều 95) thì sẽ áp dụng CISG nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật của Nhật Bản. Như vậy, việc bảo lưu này nhằm tăng trường hợp áp dụng luật quốc gia cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại quốc gia bảo lưu.

Bảo lưu này thích hợp với các quốc gia gia nhập CISG nhưng vẫn muốn tăng cường áp dụng pháp luật nội địa (những trường hợp pháp luật nội địa về mua bán hàng hóa quốc tế có nhiều điểm khác biệt với CISG, có truyền thống áp dụng lâu dài và các chủ thể áp dụng có tính “bảo thủ” như Hoa Kỳ).
Trung Quốc, một trong bốn nước thực hiện bảo lưu này, hiện cũng đang chứng kiến trào lưu yêu cầu Chính phủ bỏ bảo lưu này vì nó hạn chế việc tòa án Trung Quốc áp dụng CISG, điều này là không tốt đối với quá trình phổ biến và tăng cường việc áp dụng CISG tại Trung Quốc cũng như cản trở những lợi ích mà CISG có thể đem lại cho thương mại nước này.

Theo những đánh giá tại các phần trên của nghiên cứu này, rõ ràng Việt Nam không cần thiết phải thực hiện bảo lưu này, ít nhất bởi (i) pháp luật Việt Nam và CISG không có khác biệt lớn; (ii) pháp luật Việt Nam hiện chưa đầy đủ và sự bổ sung từ CISG là cần thiết (thay vì loại trừ nó theo bảo lưu này).

  • Bảo lưu về hình thức hợp đồng (Bảo lưu theo Điều 96)

Đây là bảo lưu liên quan đến hình thức của hợp đồng, theo đó, các quốc gia mà pháp luật đòi hỏi các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản có thể bảo lưu không áp dụng nguyên tắc tự do về hình thức mà Công ước Viên 1980 đưa ra.

Hiện tại, pháp luật Việt Nam liên quan đến hình thức của hợp đồng thương mại (Điều 27 Luật Thương mại 2005) quy định hình thức bắt buộc của hợp đồng là văn bản (và các hình thức có giá trị tương đương với văn bản như thông điệp điện tử…). Đây là lựa chọn đã được cân nhắc và bản thảo kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng Luật Thương mại 2005. Theo nhiều chuyên gia, dù quy định hợp đồng bắt buộc phải được thể hiện dưới hình thức văn bản là tương đối hạn chế so với các hình thức hợp đồng phong phú hiện nay nhưng điều này là cần thiết nhằm đảm bảo tính chắc chắn, sự rõ ràng cho các hợp đồng mua bán có yếu tố nước ngoài và khắc phục những tồn tại đầy rủi ro hiện nay trong tập quán kinh doanh theo thói quen và ít tham khảo tư vấn pháp lý của các doanh nghiệp Việt Nam.

Nhiều quốc gia thành viên đã thực hiện bảo lưu này: Trung Quốc, Ac-hen-ti-na, Bê-la-rút, Chi-lê, Hungari, Paragoay, Ucraina…

Vì vậy, có lẽ Việt Nam nên gia nhập Công ước Viên 1980 với bảo lưu này (bảo lưu duy nhất).

Quy định của pháp luật Việt Nam về gia nhập Điều ước quốc tế

Theo quy định của Luật ký kết và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2005 , trong hoàn cảnh cụ thể của CISG (không có nội dung trái Hiến pháp và pháp luật nội địa Việt Nam) thì việc gia nhập Công ước này sẽ phải đi qua các thủ tục sau (chỉ xem xét các thủ tục chính thức):

Bước 1: Bộ chuyên ngành (mà ở đây là Bộ Công Thương xét theo chức năng và thẩm quyền quản lý của cơ quan này) nghiên cứu về việc Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1980.
Bước 2: Bộ chuyên ngành lấy ý kiến kiểm tra bằng văn bản của Bộ Ngoại Giao; lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp; lấy ý kiến của các cơ quan hữu quan (Tòa án nhân dân tối cao, VCCI…).
Bước 3: Sau khi nhận được ý kiến trả lời của các cơ quan hữu quan, Bộ chuyên ngành đề xuất với Chính Phủ về việc gia nhập CISG.
Bước 4: Chính phủ ra quyết định gia nhập CISG (do việc gia nhập CISG không đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên không phải trình Ủy ban thường vụ quốc hội cho ý kiến).
Bước 5: Chính phủ đệ trình văn bản gia nhập cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.