Tác động của Công ước Viên tới các nước đã gia nhập
07/09/2010 2716Trung Quốc – Tự tin tăng trưởng
Từ hai thập kỷ nay (từ năm 1988 khi Công ước bắt đầu có hiệu lực), Công ước Viên đã và đang được áp dụng rất rộng rãi tại Trung Quốc. Nhiều phán quyết của trọng tài Trung Quốc, chủ yếu là của CIETAC (China International Economic and Trade Arbitration Commission) có liên quan đến Công ước Viên 1980 đã được tập hợp. Con số này là khoảng 300 phán quyết. Trong các phán quyết này, có thể thấy rõ vai trò của Công ước trong việc điều chỉnh các vấn đề mà pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa của Trung Quốc còn bất cập hoặc chưa điều chỉnh, nhờ đó những tranh chấp trong lĩnh vực ngoại thương được giải quyết nhanh chóng và hợp lý.
Theo nhận định của nhiều nhà phân tích thì Công ước Viên 1980 đã phát huy vai trò rất tích cực để thúc đẩy hoạt động ngoại thương của Trung Quốc. Vai trò này được thể hiện rõ nhất trong giai đoạn những năm 90 của thế kỷ trước, thời kỳ phát triển mạnh mẽ hoạt động ngoại thương của Trung Quốc. Một mặt, các nhà kinh doanh Trung Quốc có một nguồn luật đã được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới để áp dụng vào hợp đồng ký với đối tác nước ngoài. Mặt khác, các đối tác nước ngoài cũng tin tưởng và yên tâm hơn khi làm ăn với các doanh nghiệp Trung Quốc vì Công ước này đã được chấp nhận ở Trung Quốc. Số lượng các hợp đồng trong đó các bên lựa chọn Công ước Viên 1980 là luật áp dụng ngày càng gia tăng.
Vai trò của Công ước ở Trung Quốc còn thể hiện ở việc nhiều điều khoản trong Luật Hợp đồng Trung Quốc ngày 15/03/1999 được tham khảo từ Công ước này. Các nhà lập pháp Trung Quốc đã chuyển hóa các nguyên tắc chung và một số quy định cụ thể của Công ước Viên 1980 vào pháp luật hợp đồng của mình, trước hết vì đó là những nguyên tắc và quy định được chấp nhận và áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trên thực tiễn áp dụng CISG, có nhiều trường hợp thậm chí tòa trọng tài Trung Quốc còn áp dụng CISG cho cả quan hệ thương mại giữa hai bên cùng có trụ sở ở Trung Quốc, hoặc một bên Trung Quốc, một bên Hồng Kông, Macao hoặc Đài Loan. Trong đó CISG thể hiện rất rõ vai trò “lấp lỗ trống” pháp lý trong pháp luật thương mại hợp đồng của Trung Quốc.
Châu Âu – Sự hào hứng lan tỏa
Các nước Tây Âu là nơi khởi nguồn ý tưởng thành lập một công ước quốc tế nhằm thống nhất quy định về hợp đồng mua bán quốc tế. Pháp, Đức, Ý đều là thành viên của các Công ước La Hay 1964, tiền thân của CISG. Cũng chính các nước này đã tham gia đóng góp rất nhiều vào việc soạn thảo và xây dựng Công ước Viên. Chính vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi đây cũng là các nước tham gia Công ước sớm nhất (Pháp tham gia CISG năm 1982, Ý năm 1985, Đức tham gia năm 1989) và Công ước Viên cũng có ảnh hưởng rất lớn ở các nước này.
Đức là nơi mà CISG có dấu ấn rõ nét nhất, với khối lượng khổng lồ các án lệ áp dụng CISG (các án lệ này chiếm tới gần 1/3 toàn bộ các án lệ được báo cáo tại CLOUT, UNILEX và PACE). Năm 2002, CISG đã chính thức trở thành một phần của Bộ luật Dân sự của Đức. Một học giả của Đức, giáo sư Ulrich Magnus, đã tổng kết rằng “Công ước Viên là Công ước duy nhất về luật tư pháp mà Đức đã tham gia và Công ước này vẫn đang có ảnh hưởng rộng lớn trên hầu khắp các lĩnh vực mà nó có thể vươn tới” Các nghiên cứu ở nước này cho thấy CISG được phổ biến rất rộng rãi và 100% các luật sư, thẩm phán được phỏng vấn đều có những hiểu biết nhất định về CISG. Công ước Viên cũng được ghi nhận trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua Luật về các nghĩa vụ (“Schuldrechtsreform”) năm 2002 theo khuôn mẫu CISG) trong rất nhiều hợp đồng mẫu về mua bán hàng hóa.
Pháp là quốc gia thứ hai (sau Đức) có số lượng án lệ lớn về CISG. Thực tiễn áp dụng CISG tại Pháp cũng có nhiều thăng trầm. Trong thời gian đầu, sự khác biệt trong một số quy định của CISG và pháp luật về mua bán hàng hóa ở Pháp đã dẫn tới một số khó khăn nhất định trong việc áp dụng CISG. Do đó, trong thời gian này, nhiều phán quyết của tòa án Pháp liên quan đến CISG đã bị chỉ trích là không hợp lý do các thẩm phán bị ảnh hưởng nặng nề bởi pháp luật quốc gia và vì thế đã diễn giải chưa đúng các điều khoản của Công ước. Tuy vậy, cùng với thời gian, đặc biệt là với sự lên tiếng của các học giả Pháp bình luận các bản án chưa hợp lý thì chất lượng các bản án áp dụng CISG của tòa án Pháp ngày càng được nâng cao. Cũng giống như ở Đức, Công ước Viên có vai trò đáng kể giúp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng và pháp luật về hợp đồng nói chung tại Pháp. Một số quy định của CISG đã làm thay đổi quan niệm cứng nhắc của các luật gia, các thẩm phán của Pháp, ví dụ về việc chấp nhận các hợp đồng có giá mở, hay là giảm bớt các nghĩa vụ quá nặng nề của người bán. Thậm chí, trong một bản án của mình, Tòa Phúc thẩm Pháp (Cour de cassation) còn dẫn chiếu đến CISG để “soi sáng” cho một số điều luật trong Bộ luật dân sự của Pháp. Có thể nói,thành công của việc áp dụng CISG tại Pháp có được một phần lớn là nhờ nỗ lực của các nhà nghiên cứu. Ở Pháp có một lượng khổng lồ các học thuyết (doctrines) liên quan đến CISG, các công trình nghiên cứu về CISG cũng rất nhiều. Các nhà nghiên cứu, bằng những học thuyết và công trình của mình, đã góp phần vào việc tuyên truyền, phổ biến về CISG, đồng thời cũng tác động tới quá trình áp dụng CISG của các thẩm phá và quá trình hoàn thiện pháp luật quốc gia của các nhà lập pháp.
Tại Ý, một vấn đề gây khó khăn trong việc thực thi Công ước là tiếng Ý không nằm trong 06 ngôn ngữ chính thức của Công ước (là tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả rập). Hiện ở Ý tồn tại nhiều bản dịch CISG, nhưng chưa có bản dịch nào được chính thức công nhận. Tuy nhiên, các tòa án không mấy khi để ý so sánh các bản dịch này. Trong một số trường hợp các thẩm phán buộc phải dẫn chiếu đến một trong 06 bản ngôn ngữ chính thức của CISG (như bản tiếng Anh hoặc tiếng Pháp) để đảm bảo tính chính xác khi diễn giải các điều khoản của Công ước. Mặc dù không có những số liệu cụ thể chính xác, nhiều nghiên cứu và đánh giá cho thấy nhận thức về Công ước Viên trong giới luật sư, thẩm phán tại Ý là tương đối thấp. Một số tòa án từ chối áp dụng CISG và thay bằng Bộ luật Dân sự của Ý (“Codice Civile”) trong những trường hợp mà lẽ ra CISG phải được áp dụng. Tuy nhiên trong thời gian gần đây giới hành nghề luật tại Ý ngày càng nhận thức tốt hơn về Công ước, thể hiện ở việc ngày càng nhiều hợp đồng mẫu về mua bán hàng hóa sử dụng CISG như một công cụ soạn thảo. Đây là một ví dụ điển hình cho việc áp dụng CISG ở các nước không nói ngôn ngữ chính thức của CISG.
Hoa Kỳ - Gỡ bỏ nghi ngại
Là một trong những nước đầu tiên tham gia Công ước Viên từ năm 11/12/1986 nhưng quá trình thực thi Công ước tại Hoa Kỳ lại cho một bức tranh hoàn toàn trái ngược với Trung Quốc và Đức, Pháp.
Là cường quốc lớn nhất thế giới về kinh tế và thương mại quốc tế, trong suốt 12 năm đầu thực hiện Công ước, Hoa Kỳ chỉ đóng góp vào thư viện án lệ CISG khoảng 18 án lệ, thấp hơn rất nhiều so với quy mô giao dịch thương mại của quốc gia này. Đáng lưu ý trong số đó rất nhiều trường hợp các tòa án Hoa Kỳ viện dẫn Điều 6 của CISG để từ chối áp dụng Công ước. Tương tự, hầu hết các luật sư và nhà tư vấn pháp lý tại Hoa Kỳ đều khuyến khích khách hàng quy định điều khoản không áp dụng CISG trong thỏa thuận thương mại của mình. Ngoài ra, trong những trường hợp khác khi CISG được áp dụng, các thẩm phán Hoa Kỳ thường có xu hướng sử dụng các khái niệm của UCC để diễn giải Công ước trái với yêu cầu về tính quốc tế của nó. Điều này theo nhiều chuyên gia được giải thích bởi 03 lý do sau:
Thứ nhất, Bộ luật thương mại thống nhất (UCC) năm 1952 của Hoa Kỳ là một bộ luật hết sức chi tiết về hợp đồng mua bán hàng hóa, hiện được áp dụng rộng rãi tại 50 trong tổng số 51 bang của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ đã mất một thời rất dài để thống nhất hóa được luật pháp về thương mại theo UCC, vì vậy việc áp dụng CISG cho mua bán hàng hóa quốc tế tồn tại song song với UCC đã tạo ra sự xáo trộn không nhỏ. Các thương nhân Hoa Kỳ đã quen áp dụng UCC 1952 và nếu áp dụng CISG thì họ phải thay đổi một số cách thức và thói quen làm ăn đã được thực hành từ rất lâu giữa các thương nhân Hoa Kỳ và thương nhân nước ngoài. Đây là điều họ không muốn. Vì vậy, trong các điều kiện giao dịch chung (điều kiện chung về bán hàng hay điều kiện chung về mua hàng), họ đều loại trừ việc áp dụng Công ước Viên 1980. Trong trường hợp họ có thế và lực trong đàm phán, họ thường quy định áp dụng UCC hoặc pháp luật của một bang nào đó của Hoa Kỳ thay vì áp dụng CISG.
Thứ hai, CISG dường như không giành được sự quan tâm của giới nghiên cứu học thuật cũng như giới hoạt động thực tiễn ở Hoa Kỳ. Trên thực tế, các luật sư Hoa Kỳ cũng thấy khó khăn trong việc tư vấn cho khách hàng áp dụng CISG và ở Hoa Kỳ hiện chưa có nhiều án lệ áp dụng CISG. Bên cạnh đó, số lượng sinh viên, luật sư và thậm chí các thẩm phán hiểu biết về CISG rất ít nếu so với các nước thuộc EU như Pháp, Đức, Ý. Nghiên cứu của học giả Hoa Kỳ, Sukurs cho thấy CISG không được giảng dạy trong các khóa học về hợp đồng thương mại, chỉ có khoảng 30% thẩm phán tại Bang Florida có kiến thức vừa phải về CISG. Trong số 10 luật sư Hoa Kỳ được hỏi về CISG có tới 8 đến 9 người trả lời rằng họ thực sự không biết CISG là gì, một số người còn cho rằng CISG là một loại hiệp ước quốc tế không liên quan đến các quan hệ giao dịch có Hoa Kỳ tham gia vì UCC luôn là nguồn luật được áp dụng! Trong một nghiên cứu khác của Ubartaite tại Tòa Quốc tế Giả định Hoa Kỳ - Jessup, ông nhận thấy có sự phân biệt rất rõ ràng giữa nhận thức của nhóm các sinh viên đến từ châu Âu như Đức, Ý, Tây Ban Nha, Anh và Nam Phi, và nhóm sinh viên Hoa Kỳ. Các sinh viên đến từ Châu Âu đều rất quen thuộc với Công ước Viên và coi nó là một phần quan trọng trong kiến thức pháp lý của mình. Ngược lại các sinh viên Hoa Kỳ hầu như không biết về sự tồn tại của CISG, và ít hơn 20% trong số các sinh viên này từng được học về CISG.
Thứ ba, một số quy định và khái niệm cơ bản của CISG khác với các quy định tương ứng của Hoa Kỳ, điều này khiến cho việc xét xử có thể trở nên khó khăn. Ví dụ như khái niệm “thiện chí” trong CISG không hề xuất hiện trong hệ thống luật Hoa Kỳ. Vì vậy ngay cả các thẩm phán cũng “lưỡng lự” trong việc áp dụng CISG và thường có xu hướng né tránh áp dụng.
Các lý do trên cũng đúng đối với hầu hết các nước theo hệ thống thông luật (common law) như Anh, New Zealand, Canada, Úc, Singapore. Tuy nhiên, trong 10 năm trở lại đây, trước áp lực rất lớn của cộng đồng quốc tế, tình hình áp dụng Công ước Viên tại Hoa Kỳ đã được cải thiện ít nhiều. Chỉ trong 10 năm từ 2001-2010, số lượng án lệ CISG của Hoa Kỳ được báo cáo tại UNILEX đã tăng gấp hơn 3 lần so với 12 năm trước đó (từ 1998-2000), nhiều học giả và nhà hành nghề luật tại Hoa Kỳ đã nêu lên nhu cầu phải thống nhất hóa luật quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo khuôn khổ CISG do khối lượng giao dịch thương mại ngày càng tăng giữa các quốc gia thành viên của Công ước.