Các đối thủ cạnh tranh chính của hàng hóa Việt Nam tại New Zealand

•    Các nguồn cung nhập khẩu lớn nhất của New Zealand

Các nước châu Á: Do cùng nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giao thương, New Zealand có xu hướng nhập khẩu nhiều hàng hóa từ các quốc gia/vùng lãnh thổ tại châu Á. Năm 2023, tổng nhập khẩu hàng hóa từ các nước thuộc khu vực này chiếm tới 56,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của New Zealand (Số liệu năm 2023 của ITC Trademap). Đáng chú ý, trong tốp 10 đối tác nhập khẩu lớn nhất của New Zealand, có hơn nửa quốc gia/vùng lãnh thổ thuộc châu Á, chiếm 48,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của quốc gia này.
Australia, Hoa Kỳ, Đức, Vương quốc Anh: Là các quốc gia nhiều điểm tương đồng về văn hóa, ngôn ngữ, hoặc có mối liên kết lịch sử với New Zealand, Australia, Hoa Kỳ, Đức, Vương quốc Anh cũng đồng thời là những đối tác xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường New Zealand.

Các đối tác kể trên hiện đang chiếm lĩnh thị trường nhập khẩu của New Zealand ở đa số các mặt hàng (đặc biệt là nguyên nhiên liệu, máy móc, thiết bị, linh kiện…). Trong số các đối tác nhập khẩu này, nhiều trường hợp là các nền kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh cao, lại có nhiều mặt hàng xuất khẩu tương đồng với Việt Nam, do vậy, hàng hóa của Việt Nam được đánh giá phải đối mặt với mức độ cạnh tranh tương đối cao khi thâm nhập vào thị trường New Zealand. 

Bảng 1: Tốp 10 nước/vùng lãnh thổ nhập khẩu nhiều nhất vào New Zealand năm 2023

STT

Đối tác nhập khẩu (NK)

Giá trị NK vào New Zealand 2023
(tỷ USD)

Tỷ trọng trong tổng NK của New Zealand

1

Trung Quốc

10,33

20,70%

2

Australia

5,38

10,77%

3

Hoa Kỳ

4,90

9,82%

4

Hàn Quốc

3,72

7,44%

5

Nhật Bản

3,33

6,66%

6

Singapore

2,78

5,57%

7

Đức

2,23

4,47%

8

Malaysia

2,02

4,05%

9

Thái Lan

1,83

3,67%

10

Vương quốc Anh

1,31

2,62%


Nguồn: ITC Trade Map, 2024

•    Đối tác FTA

Tính đến hết năm 2023, New Zealand có tổng cộng 12 FTA có hiệu lực (với 28 nền kinh tế), và đang đàm phán 05 FTA với nhiều đối tác UAE, Hội đồng vùng vịnh (GCC), Ấn Độ… (Bộ Ngoại giao và Thương mại New Zealand, 2023). Như vậy, ít nhất hiện tại hàng hóa từ 28 đối tác FTA đang có hiệu lực khi xuất khẩu sang thị trường New Zealand có thể được hưởng ưu đãi thuế quan theo FTA với New Zealand.

Phần lớn các đối tác FTA của New Zealand nằm ở khu vực châu Á và châu Đại Dương, với nhiều sản phẩm tương đồng với Việt Nam. Vì vậy, mặc dù có chung với New Zealand 03 FTA (AANZFTA, CPTPP, RCEP), Việt Nam vẫn phải cạnh tranh gay gắt với nhiều đối thủ, đặc biệt là các nền kinh tế trong khu vực như Trung Quốc, ASEAN…, khi xuất khẩu vào thị trường New Zealand. 

Bảng 2: Thống kê các FTA của New Zealand

STT

FTA

Đối tác

1

12 FTA đã có hiệu lực

- 14 đối tác khu vực châu Á: 10 nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc).

- 04 đối tác khu vực Châu Mỹ: Canada, Mexico, Peru, Chi-lê.

- 01 đối tác khu vực châu Âu: Vương quốc Anh.

- 09 đối tác khu vực châu Đại Dương: Australia, Samoa, Tuvalu, Kiribati, Tonga, quần đảo Solomon, Niue, Vanuatu, quần đảo Cook

2

05 FTA đang đàm phán

- Hiệp định thương mại tự do New Zealand - Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC)

- Hiệp định thương mại tự do New Zealand – các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất (UAE)

- Hiệp định thương mại tự do New Zealand – Liên minh Thái Bình Dương

- Hiệp định thương mại tự do New Zealand - Ấn Độ

- Hiệp định thương mại tự do vơi RBK (Nga/Belarus/Kazakhstan)

Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, Ả-rập Xê-út, các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất (UAE), Chile, Colombia, Mexico, Peru, Ấn Độ, Nga, Belarus, Kazakhstan


Nguồn: Bộ Ngoại giao và Thương mại New Zealand, 2023

•    Đối tác GSP

GSP là cơ chế ưu đãi thuế quan mà New Zealand đơn phương dành cho các nước kém phát triển (Less Developed Country - LDC) và kém phát triển nhất (Least Developed Country - LLDC). Theo quy định mới nhất năm 2023 (Tariff (Less Developed Countries and Least Developed Countries) Order 2023), New Zealand đang áp dụng cơ chế GSP cho 162 quốc gia/vùng lãnh thổ (trong đó có Việt Nam).

Khác với FTA, GSP là cơ chế ưu đãi đơn phương của New Zealand, do đó New Zealand có thể thay đổi đối tượng và điều kiện được hưởng GSP bất kỳ khi nào, tùy thuộc vào chính sách của New Zealand trong từng giai đoạn. Bên cạnh đó, thuế quan ưu đãi theo GSP cũng thường không cạnh tranh bằng thuế quan ưu đãi theo FTA. Mặc dù vậy, việc được cắt giảm thuế quan theo cơ chế GSP của New Zealand cũng tạo ra lợi thế nhất định cho các nước đối tác được hưởng cơ chế này.

Nguồn: Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI