Hỏi - Đáp về ATISA: Cơ chế, mức độ tự do hóa và hiệu lực của cam kết mở cửa thị trường tại Phụ lục I và II ATISA?

16/10/2021    426

Như đã đề cập trong Câu hỏi 17, ATISA mở cửa theo phương pháp “chọn-bỏ”, mở tất cả trừ các trường hợp bảo lưu. Các bảo lưu của mỗi nước được liệt kê trong các Danh mục cụ thể, gọi là Danh mục các biện pháp không tương thích (Danh mục NCM) của họ. 

Theo ATISA, mỗi nước cam kết 02 loại Danh mục NCM, thể hiện trong Phụ lục I và Phụ lục II của mỗi nước. ATISA quy định cơ chế và điều kiện riêng đối với các NCM từng Phụ lục, nhưng có quy định chung về mức tự do hóa và thời điểm có hiệu lực của cả hai Phụ lục này.

(i)    Cơ chế áp dụng

  • Đối với Phụ lục I ATISA

Phụ lục I của mỗi nước thành viên là Danh mục NCM - các biện pháp không phù hợp với một hoặc các nguyên tắc cơ bản của ATISA (gồm Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, Tiếp cận thị trường, Hiện diện tại nước sở tại, và Nhân sự quản lý cấp cao) mà nước đó bảo lưu quyền áp dụng.

Các biện pháp “không tương thích” tại Phụ lục I này có thể là biện pháp của chính quyền trung ương, vùng hoặc địa phương. Tuy nhiên, các biện pháp được bảo lưu tại Phụ lục I này phải đáp ứng điều kiện:

-    Là biện pháp đang được áp dụng (đang có hiệu lực) tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực với nước đó (*); hoặc

-    Là biện pháp tiếp nối hoặc gia hạn một biện pháp nêu ở (*), hoặc

-    Là biện pháp sửa đổi của biện pháp nêu ở (*) nhưng không làm giảm mức độ tuân thủ các nguyên tắc ứng xử cơ bản (05 nguyên tắc ở trên) so với biện pháp ban đầu tại thời điểm Phụ lục I có hiệu lực. 

Như vậy, hiểu một cách đơn giản, Phụ lục I chỉ cho phép bảo lưu với các biện pháp đang áp dụng tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực hoặc các trường hợp gia hạn, sửa đổi sau đó với các biện pháp này nếu mức sửa đổi không kém thuận lợi hơn mức trước đó. 

Ngoài ra, đối với các biện pháp đang có hiệu lực tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực được bảo lưu trong Phụ lục này, ATISA còn quy định về nguyên tắc “chỉ tiến không lùi” (Xem Câu hỏi 17). 

  • Đối với Phụ lục II ATISA

Phụ lục II của mỗi nước thành viên cũng là Danh mục các biện pháp không phù hợp với một hoặc các nguyên tắc cơ bản của ATISA mà nước đó bảo lưu quyền áp dụng. 

Tuy nhiên, khác với Phụ lục I, các biện pháp tại Phụ lục II không phải đáp ứng bất kỳ điều kiện nào về thời điểm áp dụng hay chiều hướng quy định. Nguyên tắc rachet cũng sẽ không áp dụng với các biện pháp tại Phụ lục II này.

Do không bị ràng buộc bởi các nguyên tắc về định hướng quy định như Phụ lục I, các biện pháp liệt kê trong Phụ lục II có mức độ bảo lưu cao hơn, cho phép nước bảo lưu linh hoạt hơn, chủ động hơn, có không gian thoải mái hơn để thực hiện các mục tiêu chính sách của mình trong tương lai với các lĩnh vực được liệt kê.

(ii)    Về mức mở cửa

Theo cam kết ATISA, mỗi nước được tự xác định nội dung Phụ lục I và II của mình. Điều này có nghĩa là các nước được tự do xác định các ngành, phân ngành, hoạt động dịch vụ mà mình muốn bảo lưu (chưa mở cửa hoặc mở cửa có điều kiện) đối với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ ASEAN.

Tuy nhiên, ATISA vẫn có một ràng buộc đối với mức độ mở cửa (tự do hóa) của các nước trong Phụ lục I và II. Cụ thể, mức mở cửa của nước thành viên trong Phụ lục I và II phải bảo đảm bằng hoặc tốt hơn (tự do hơn) so với mức mở cửa của nước đó trong các Gói cam kết AFAS cuối cùng. Như vậy, trong mọi trường hợp, mức mở cửa của mỗi nước trong ATISA sẽ tối thiểu là bằng với mức cam kết hiện tại của nước đó trong ASEAN.

(iii)    Thời điểm ban hành và có hiệu lực

Theo cam kết ATISA, mỗi nước được tự xác định thời điểm hoàn tất Phụ lục I và II của mình và chỉ có nghĩa vụ trình các Phụ lục này cho Ban Thư ký ASEAN không muộn hơn 05 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực trừ:

-    Đối với Việt Nam: không muộn hơn 07 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực

-    Đối với Campuchia, Lào, Myanmar: không muộn hơn 10 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực

Như vậy, mặc dù có cam kết về Phụ lục I và II nhưng tại thời điểm ATISA có hiệu lực, chưa có Phụ lục I và II cụ thể nào. Các nước tự xây dựng các Danh mục NCM của mình và tự quyết định đưa vào Phụ lục I hay Phụ lục II. Các nước cũng tự xác định thời điểm bắt đầu thực hiện cam kết tại Phụ lục I và II của mình (thông qua việc quyết định đệ trình hai Phụ lục này cho Ban Thư ký ASEAN).

Trong thời gian nước thành viên chưa đệ trình Phụ lục I và II của mình cho Ban Thư ký ASEAN, cam kết mở cửa thị trường dịch vụ của nước đó sẽ thực hiện theo Biểu cam kết mở cửa trong AFAS của nước đó.

Trong vòng 02 năm kể từ khi Ban Thư ký ASEAN nhận được đệ trình Phụ lục I và II của nước thành viên, đối với nước thành viên đó, Phụ lục I và II và Biểu cam kết mở cửa trong AFAS của nước đó cùng song song có hiệu lực. Sau 2 năm, Biểu cam kết mở cửa theo AFAS của nước đó tự động hết hiệu lực, việc mở cửa thị trường dịch vụ của nước đó trong ATISA thực hiện theo Phụ lục I và II.

Nguồn: Trích dẫn "Sổ tay Hỏi - Đáp về Hiệp định Thương mại Dịch vụ ASEAN (ATISA)" -
Dự án: Thúc đẩy năng lực cạnh tranh trong khuôn khổ Sáng kiến hội nhập ASEAN (COMPETE) - GIZ