Tin tức

Hoa Kỳ khởi xướng điều tra CBPG và CTC đối với sản phẩm bê tông cốt thép nhập khẩu từ Việt Nam

Ngày 25 tháng 6 năm 2025, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã chính thức khởi xướng điều tra chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC) với thép cốt bê tông nhập khẩu từ An-giê-ri-a, Bun-ga-ri-a, Ai Cập và Việt Nam:

1. Thông tin chung về vụ việc

- Mã vụ việc: A-552-853 (CBPG) và C-552-854 (CTC)

- Sản phẩm bị đề nghị điều tra: sản phẩm thép cốt bê tông chủ yếu thuộc mã HS 7213.10.0000, 7214.20.0000 và 7228.30.8010. Sản phẩm cũng có thể được nhập khẩu theo các mã HS 7221.00.0017, 7221.00.0018, 7221.00.0030, 7221.00.0045, 7222.11.0001, 7222.11.0057, 7222.11.0059, 7222.30.0001, 7227.20.0080, 7227.90.6030, 7227.90.6035, 7227.90.6040, 7228.20.1000, và 7228.60.6000.     

- Nguyên đơn: Hiệp hội Thép cốt bê tông Hoa Kỳ

- Ngày nhận đơn: Ngày 04 tháng 6 năm 2025.

- Doanh nghiệp xuất khẩu bị cáo buộc bán phá giá và được trợ cấp: Đơn kiện nêu tên 10 doanh nghiệp của Việt Nam sản xuất, xuất khẩu sản phẩm bị điều tra

- Thời kỳ điều tra CBPG để xuất: 01/10/2024 - 31/3/2025

- Thời kỳ điều tra CTC đề xuất: Năm 2024

- Thời kỳ điều tra thiệt hại đề xuất: 03 năm (2022-2024)

- Kim ngạch xuất khẩu: Theo số liệu do Nguyên đơn trích từ nguồn của Ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), trong giai đoạn từ tháng 4 năm 2024 đến tháng 3 năm 2025, Việt Nam xuất khẩu lần lượt khoảng 78,663 tấn sản phẩm bị cáo buộc sang Hoa Kỳ, chiếm 8,2% thị phần nhập khẩu.

- Các quốc gia bị đề nghị điều tra CBPG: An-giê-ri-a, Bun-ga-ri-a, Ai Cập và Việt Nam; các quốc gia bị đề nghị điều tra CTC: An-giê-ri-a, Ai Cập và Việt Nam.

1.1. Thông tin cáo buộc bán phá giá

- Biên độ CBPG bị cáo buộc với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam: 117.61%

- Nước và giá trị thay thế: Tương tự như các vụ việc gần đây, do Hoa Kỳ coi Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, nên DOC sẽ sử dụng các giá trị thay thế của quốc gia thứ ba để tính toán biên độ phá giá cho Việt Nam. Trong vụ việc này, nguyên đơn đề nghị sử dụng Ai Cập là quốc gia thay thế do cho rằng Ai Cập có mức độ phát triển kinh tế tương đồng với Việt Nam và có số lượng đáng kể các nhà sản xuất bị điều tra.

Các bên có thời hạn bình luận về giá trị thay thế trong vòng 30 ngày trước ngày DOC dự kiến ban hành kết luận sơ bộ của vụ việc.

1.2. Thông tin cáo buộc trợ cấp

- Biên độ CTC bị cáo buộc với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam: Nguyên đơn không đưa ra cáo buộc với biên độ trợ cấp.

- Các chương trình trợ cấp bị cáo buộc: Nguyên đơn cáo buộc các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu thép cốt bê tôngViệt Nam đã nhận được 39 chương trình trợ cấp từ Chính phủ, gây thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ. Các chương trình trợ cấp bị cáo buộc thuộc các nhóm:

(1) Nhóm các chương trình cho vay (9 chương trình): gồm các chương trình Cho vay chính sách của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chính sách, hỗ trợ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, bao thanh toán của Ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước (SOCBs), bảo lãnh xuất khẩu của SOCBs, cho vay ưu đãi của SOCBs, tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB), cho vay ưu đãi cho các chương trình Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, cho vay hỗ trợ chuyển đổi sang năng lượng sạch.

(2) Nhóm các chương trình ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) (11 chương trình): gồm các chương trình về ưu đãi thuế TNDN trong các khu vực đặc biệt, ưu đãi thuế TNDN cho doanh nghiệp xuất khẩu, ưu đãi thuế TNDN cho dự án đầu tư cũ, ưu đãi thuế TNDN cho dự án đầu tư mới, ưu đãi thuế theo Nghị định số 24/2007/NĐ-CP, ưu đãi thuế TNDN cho FDI; chương trình khấu hao nhanh và tăng chi phí được giảm trừ, ưu đãi thuế TNDN theo Nghị định 60/2012, ưu đãi thuế TNDN cho một số ngành cụ thể, ưu đãi thuế TNDN cho các dự án đầu tư lớn và R&D.

(3) Chương trình miễn và hoàn thuế nhập khẩu (7 chương trình): bao gồm các chương trình miễn/hoàn thuế nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, miễn thuế cho hàng vào khu công nghiệp, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu cho doanh nghiệp chế xuất/khu chế xuất, miễn thuế  nhập khẩu máy móc thiết bị, miễn thuế nhập khẩu cho các Dự án của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, và miễn các loại thuế khác liên quan đến linh kiện, vật tư sản xuất.

(4) Nhóm các chương trình ưu đãi về đất (05 chương trình): Bao gồm miễn hoặc giảm tiền thuê đất, miễn thuế sử dụng đất cho các ngành được khuyến khích, miễn tiền thuê đất cho Dự án của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, miễn tiền thuê đất cho các ngành nghề đủ điều kiện khác, miễn/giảm tiền thuê đất cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế, hay khu vực đặc biệt.

(5) Nhóm các chương trình tài trợ (03 chương trình): gồm các chương trình xúc tiến xuất khẩu, hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ theo Nghị định 118/2015. Những khoản trợ cấp này không yêu cầu hoàn trả và nhằm khuyến khích doanh nghiệp phát triển theo định hướng nhà nước mong muốn.

(6) Cung cấp tiện ích với mức giá ưu đãi (04 chương trình): gồm các chương trình cung cấp khí ga, CNG/LNG thấp hơn giá thông thường trong khu công nghiệp và khu chế xuất, cung cấp điện thấp hơn giá thông thường.

2. Quy trình thủ tục điều tra tiếp theo

Theo quy định điều tra của Hoa Kỳ, có 02 cơ quan tham gia trong một vụ việc điều tra CBPG và CTC: DOC điều tra về hành vi bán phá giá và trợ cấp và chịu trách nhiệm chung về kết quả điều tra trong khi ITC chịu trách nhiệm đánh giá thiệt hại của ngành sản xuất trong nước. Sản phẩm chỉ bị áp thuế CBPG/CTC nếu cả 02 cơ quan đều ban hành kết luận khẳng định. Nếu như trong vụ việc CBPG, chỉ có doanh nghiệp xuất khẩu là đối tượng bị điều tra thì trong vụ việc CTC, Chính phủ cũng là đối tượng bị điều tra.

2.1. Quy trình điều tra của DOC:

(1) Lựa chọn bị đơn bắt buộc

Sau khi khởi xướng điều tra, DOC đã ban hành Bản câu hỏi về Lượng và Giá trị (Q&V) cho vụ việc CBPG để thu thập thông tin nhằm lựa chọn bị đơn bắt buộc. Thời hạn trả lời hiện đang là ngày 10 tháng 7 năm 2025. Tất cả các doanh nghiệp nằm trong danh sách nhận bản câu hỏi Q&V của DOC, các doanh nghiệp có xuất khẩu trong giai đoạn điều tra và các doanh nghiệp muốn được hưởng thuế suất CBPG riêng rẽ cần phải trả lời.

Theo thông lệ, DOC sẽ dựa trên phản hồi Bản câu hỏi Q&V và số liệu của Hải quan Hoa Kỳ để lựa chọn bị đơn bắt buộc (thường là các nhà xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam về lượng trong giai đoạn điều tra). Các bị đơn bắt buộc sẽ được điều tra và xác định biên độ phá giá/biên độ trợ cấp riêng.

(2)  Đăng ký làm bị đơn riêng rẽ (chỉ áp dụng với vụ việc CBPG)

Riêng trong vụ việc điều tra CBPG, trong trường hợp không được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc, các doanh nghiệp phải đăng ký hưởng thuế suất riêng rẽ để được tính thuế dựa trên kết quả của bị đơn bắt buộc (nếu không sẽ bị áp dụng mức thuế toàn quốc, thường bằng mức cáo buộc). Các doanh nghiệp cần chứng minh hoạt động độc lập, không chịu sự kiểm soát của Chính phủ cả về pháp lý và thực tiễn. Mức thuế suất riêng rẽ bằng bình quân gia quyền các biên độ phá giá của các bị đơn bắt buộc (loại trừ các biên độ bằng 0, và biên độ dựa trên dữ liệu sẵn có bất lợi). Thời hạn để nộp Đơn xin hưởng thuế suất riêng rẽ là 21 ngày kể từ ngày khởi xướng.

Trong trường hợp doanh nghiệp không nộp Đơn xin hưởng thuế suất riêng rẽ hoặc doanh nghiệp đã nộp, nhưng không được chấp nhận, thì biên độ phá giá dành cho các doanh nghiệp sẽ là mức thuế suất toàn quốc (thường rất cao, có thể bằng với biên độ phá giá cáo buộc).

(3) Bình luận và phản biện về phạm vi sản phẩm

Các bên liên quan có thể nêu ý kiến về phạm vi sản phẩm bị điều tra. Thời hạn bình luận hiện được gia hạn đến ngày 8 tháng 7 năm 2025 và thời gian phản biện được gia hạn đến ngày 18 tháng 7 năm 2025.

(4) Trả lời Bản câu hỏi điều tra

Sau khi xác định được bị đơn bắt buộc, DOC sẽ ban hành Bản câu hỏi điều tra dành cho bị đơn bắt buộc. Trong vụ việc CTC, DOC sẽ ban hành thêm Bản câu hỏi điều tra dành cho Chính phủ. Thời hạn trả lời thường là 30 ngày kể từ ngày ban hành bản câu hỏi ban đầu (có thể xin gia hạn). DOC có thể ban hành các bản câu hỏi bổ sung với thời hạn ngắn hơn.   

(5) Kết luận sơ bộ

- Vụ việc CBPG: dự kiến ngày 12 tháng 11 năm 2025

- Vụ việc CTC: dự kiến ngày 28 tháng 8 năm 2025

Lưu ý, DOC có thể áp dụng thuế hồi tố đến 90 ngày trước ngày áp thuế sơ bộ trong trường hợp có bằng chứng cho thấy tồn tại “tình trạng khẩn cấp” (nhập khẩu tăng đột biến) theo cáo buộc của Nguyên đơn.

(6) Thẩm tra tại chỗ: sau khi có kết luận sơ bộ, DOC có thể tiến hành thẩm tra tại chỗ doanh nghiệp và Chính phủ (chỉ thẩm tra Chính phủ trong vụ việc CTC).

(7) Kết luận cuối cùng: 75 ngày từ ngày kể từ ngày ban hành kết luận sơ bộ, có thể gia hạn (dự kiến là ngày 7 tháng 5 năm 2026).

2.3. Quy trình điều tra tại ITC

ITC tập trung điều tra, xác định việc bán phá giá/trợ cấp có phải là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại của ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ hay không. Trong trường hợp ITC xác định không có thiệt hại ở giai đoạn Kết luận cuối cùng, vụ việc sẽ được chấm dứt.

3. Một số khuyến nghị ứng phó

(i) Đối với Hiệp hội Thép Việt Nam:

Cập nhật thông tin đến các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu sản phẩm bị điều tra. Phối hợp, đồng hành cùng các doanh nghiệp và Chính phủ xử lý vụ việc.

(ii) Đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu liên quan:

- Tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến của vụ việc; chủ động nghiên cứu, nắm vững quy định, trình tự, thủ tục điều tra CBPG và CTC của Hoa Kỳ; đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu;

- Hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra Hoa Kỳ trong suốt quá trình diễn ra vụ việc. Bất kỳ hành động thể hiện sự bất hợp tác hoặc hợp tác không đầy đủ có thể dẫn tới việc cơ quan điều tra Hoa Kỳ sử dụng các chứng cứ sẵn có bất lợi hoặc áp dụng mức thuế CBPG và CTC cao nhất cho doanh nghiệp;

- Chủ động đăng ký tài khoản IA ACCESS tại cổng thông tin điện tử của DOC (https://access.trade.gov/login.aspx) nhằm cập nhật thông tin và nộp các Bản trả lời, tài liệu liên quan tới Cơ quan điều tra Hoa Kỳ; 

- Thường xuyên phối hợp, cập nhật thông tin cho Cục PVTM để nhận được sự hỗ trợ kịp thời.

Thông tin chi tiết xin liên hệ: Phòng Xử lý PVTM nước ngoài, Cục PVTM, Bộ Công Thương, 54 Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội (Chuyên viên phụ trách: Nguyễn Việt Hà, Email: hanv@moit.gov.vn, nganha@moit.gov.vn. Website: http://trav.gov.vn/.

Nguồn: Cục PVTM