Tin tức

Đưa trái dừa chinh phục người Mỹ

5 năm trở về trước, nói đến dừa tươi uống liền tại Mỹ, khách hàng chỉ nghĩ dừa Thái Lan. Nhưng ông Nguyễn Đình Tùng (tổng giám đốc Công ty Vina T&T) đã nhảy vào thay đổi cán cân với những trái dừa đến từ Việt Nam.

"Bài học" mà ông muốn chia sẻ là: tự tin đưa "hàng thật" đi chinh phục thị trường quốc tế.

Đánh bay "hàng nhái"

Là người có kinh nghiệm xuất khẩu trái cây nhiều năm đi Mỹ, lại là con rể của Bến Tre, ông Tùng thắc mắc vì sao dừa Bến Tre ngon ngọt như vậy mà chưa được người tiêu dùng ở Mỹ đón nhận như dừa Thái Lan.

Trong một lần đi Mỹ tìm hiểu thị trường, ông Tùng đến một số chợ tại đây để tìm hiểu và phát hiện trái dừa Việt bán tại Mỹ không phải dừa xiêm chính hiệu, mà là dừa lai với độ ngọt kém hơn nhiều dừa Thái... Có lẽ đó chính là lý do mà dừa Việt Nam chưa được người tiêu dùng ở đây lựa chọn.

Về nước, ông Tùng tìm đến vùng dừa xiêm Bến Tre chính hiệu và xuất thử một container cho đối tác thân thiết ở Mỹ để làm thị trường, tức là tặng cho người tiêu dùng uống thử. Đúng dự đoán, dừa xiêm Bến Tre ngon ngọt nhanh chóng được người tiêu dùng Mỹ đón nhận. 

Đối tác nhanh chóng đặt hàng thêm và chỉ một năm sau đã chiếm chỗ dừa Thái tại nhiều quầy hàng bán dừa tươi tại Mỹ. Vina T&T phải xây thêm nhà máy quy mô xử lý 2,5 triệu trái/năm tại Bến Tre để đáp ứng xuất khẩu.

Bước đầu tiên, phải giảm chi phí logistics

Đối với nông sản, đặc biệt là hàng rau quả tươi, chi phí logistics chiếm đến 50-60% giá thành. Đây là một trở ngại rất lớn cho cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam so với các quốc gia xuất khẩu khác, nhất là Thái Lan. Vì vậy, doanh nghiệp rất mong muốn Việt Nam có một chiến lược hỗ trợ xuất khẩu nông sản thông qua các chương trình làm giảm chi phí logistics. 

Cụ thể, đó là việc bỏ bớt hoặc giảm chi phí các trạm BOT cho xuất khẩu nông sản, mở thêm các đường bay mới để tăng khả năng cung ứng hãng vận chuyển hàng hóa ra các nước, giảm chi phí và thủ tục kiểm tra tại các cảng biển và hải quan... 

Có như vậy, nông sản Việt Nam mới có thể cạnh tranh lâu dài và phát triển tại các thị trường mới mở hoặc ký kết FTA, thay vì chỉ hào hứng thời điểm ban đầu rồi sau đó hụt hơi khi cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác.

Một trong những nỗi lo nữa của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, theo ông Tùng, là dư lượng các chất cấm. Doanh nghiệp hiểu rằng chất lượng là vấn đề sống còn khi xuất khẩu nông sản sang các thị trường khó tính nên đã cùng nông dân xây dựng các vùng trồng đảm bảo chất lượng, tuân thủ không sử dụng các chất mà các thị trường nhập khẩu cấm. 

Tuy nhiên, việc quản lý sản xuất và kinh doanh hóa chất vật tư nông nghiệp vẫn còn nhiều kẽ hở dẫn tới tình trạng trộn lẫn hoặc cố tình cho các chất cấm nhưng không khai báo, ghi nhãn vào các sản phẩm lưu thông trên thị trường. Do đó, nông dân cũng vô tình mua và sử dụng mà không biết, lô hàng bị vi phạm và doanh nghiệp có nguy cơ phá sản.

Vì thế, doanh nghiệp và nông dân mong muốn và thực tâm làm ra sản phẩm sạch để xuất khẩu nên rất mong các cơ quan chức năng tăng cường kiểm soát các hành vi gian dối này để tránh ảnh hưởng đến cả ngành và hình ảnh nông sản Việt Nam.

Có chiến lược quốc gia đưa nông sản ra thế giới

Theo ông Tùng, lúa gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, trái cây, thủy hải sản... của Việt Nam đã có mặt trên khắp thế giới, xuất hiện trong các siêu thị, nhà hàng hay bếp ăn gia đình ở các thị trường cao cấp, khó tính nhất toàn cầu như Mỹ, EU, Canada, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc... 

Điều đó cho thấy chúng ta đã xây dựng được hình ảnh là nơi cung cấp nhiều loại nông sản, thực phẩm có số lượng và chất lượng đáp ứng được nhu cầu.

Nhưng để tăng thêm cả về sản lượng và giá trị xuất khẩu nông sản ra thế giới, Việt Nam cần nâng cấp chiến lược tập trung vào số lượng và chất lượng sang chiến lược cạnh tranh quốc gia, tức cạnh tranh với các đối thủ cũng xuất khẩu các mặt hàng tương tự, với chất lượng tương tự, thậm chí cao hơn.

Về những lợi thế, ông Tùng nhận định nhu cầu về các mặt hàng nông sản thực phẩm trên thế giới rất cao và không ngừng tăng lên. Cơ hội cho xuất khẩu mặt hàng này cực kỳ lớn. 

Thời gian qua, Chính phủ đã nỗ lực ký kết được nhiều hiệp định thương mại tự do chất lượng cao có giá trị như Hiệp định thương mại tự do VN-EU (EVFTA), CPTPP, các hiệp định thương mại song phương với Nhật Bản, Hàn Quốc... 

Đây là những tiền đề hết sức quan trọng, tạo ra lợi thế rất lớn cho hàng nông nghiệp và các doanh nghiệp Việt đưa hàng hóa ra thế giới, và vẫn cần có thêm những hiệp định chất lượng cao như vậy nữa.

Tuy vậy, theo ông Tùng, làm thế nào để tận dụng cơ hội giảm thuế từ các hiệp định nói trên vẫn là một vấn đề còn nhiều khó khăn cần giải quyết. Doanh nghiệp rất mong muốn các bộ, ngành liên quan tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh và chất lượng sản phẩm của Việt Nam tới người tiêu dùng các nước.

Nguồn: Báo Tuổi trẻ