Tổng hợp tin tức về quan điểm của các bên trong vòng đàm phán 15 TPP
23/01/2013 13Vòng đàm phán thứ 15 Hiệp định Đối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã diễn ra từ ngày 3-12 tháng 12/2012 tại Aukland, New Zealand, dưới đây là bản tổng hợp tin tức về quan điểm các bên trong vòng đàm phán này.
I. ĐỘNG THÁI CHUNG
Tại vòng đàm phán lần này, các Bên có những động thái linh hoạt hơn trong việc thảo luận các chủ đề khó/khác biệt lớn trong đàm phán bằng cách đưa ra các phương án khác nhau (thay vì từ chối hoàn toàn như trước đây). Vì vậy, vòng đàm phán lần này đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, bốn lĩnh vực đàm phán khó nhất trong TPP, theo Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Ron Kirk, là Sở hữu trí tuệ (IP), Doanh nghiệp nhà nước (SOEs), Nguồn gốc xuất xứ (ROO) và Dệt may thì vẫn còn nhiều khác biệt về quan điểm giữa các nước, đặc biệt khi thành viên TPP bây giờ đã lên tới con số 11.
Hiện tại, Hoa Kỳ đang xem xét lại đề xuất của mình về sáng chế thuốc, vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (SPS) và quy định đối với thuốc lá. Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn nhấn mạnh “tiêu chuẩn cao” của TPP và sẽ đấu tranh để có được bảo hộ mạnh đối với IP, và có được các cam kết về các vấn đề “thế hệ mới” như truyền dữ liệu qua biên giới, giải quyết mâu thuẫn trong quy định bởi đây là những vấn đề cốt yếu để tăng năng lực cạnh tranh của Hoa Kỳ.
II. QUAN ĐIỂM CỤ THỂ TRONG CÁC LĨNH VỰC ĐÀM PHÁN
1. Về các yêu cầu của Hoa Kỳ đối với Doanh nghiệp Nhà nước (SOEs)
SOEs hiện đang là một trong những vấn đề đàm phán khó khăn nhất của TPP khi các nước vẫn còn những quan điểm khá khác xa nhau. Có thông tin cho hay, Úc đã đưa ra những “nguyên tắc” không tuân thủ (non-binding) về SOEs như là một lựa chọn cho đề xuất của Hoa Kỳ về SOEs (Hoa Kỳ yêu cầu các quy tắc bắt buộc để đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân).
Trong khi đó, trưởng đoàn đàm phán TPP của Malaysia đã thể hiện phản đối đề xuất này của Hoa Kỳ và tuyên bố Malaysia cảm thấy “không thoải mái” với đề xuất này và đề cập tới quyền đưa ra dự thảo khác
2. Về các yêu cầu của Hoa Kỳ đối với Chương IP
Trước việc đa số các nước TPP phản đối yêu cầu về sáng chế của Hoa Kỳ (với lý do pháp luật nội địa của họ hiện không bảo hộ liên kết sáng chế, độc quyền dữ liệu và gia hạn sáng chế như đề xuất của Hoa Kỳ), Hoa Kỳ tuyên bố chưa quyết định có thay đổi đề xuất IP ban đầu của mình và đang lấy ý kiến Nghị viện và các bên liên quan.
Chi lê cho rằng các đề xuất IP của Hoa Kỳ có thể buộc nước này phải đưa ra một dự thảo hoàn toàn mới về sáng chế đối với dược phẩm. New Zealand thì hy vọng vấn đề sáng chế thuốc sẽ được bàn thảo trong Vòng 16 (vì Vòng 15 đã không bàn đến vấn đề này). Có tin nói New Zealand có thể chấp nhận đề xuất của Hoa Kỳ đối với sáng chế phần mềm để đánh đổi lấy quyền tiếp cận thị trường Hoa Kỳ với sản phẩm sữa của New Zealand.
3. Về quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may
Về vấn đề này, Hoa Kỳ nói rằng các lực lượng trong nước sẽ không nhượng bộ đối với nguyên tắc yarn-forward cho hàng dệt may nhưng sẵn sàng đàm phán thực chất về các quy tắc linh hoạt mà các đối tác liên quan (Việt Nam) yêu cầu. Cụ thể, Hoa Kỳ đưa ra sáng kiến linh hoạt hơn đối với yarn-forward: Chấp nhận 02 loại danh mục không áp dụng yarn-forward cho các hàng hóa diện “short-supply”, bao gồm:
+ Danh mục thường xuyên-permanent: Bao gồm các sản phẩm không được sản xuất trong TPP và không hy vọng được sản xuất trong TPP trong tương lai (trong các FTA trước của Hoa Kỳ đã từng có điều khoản loại này)
+ Danh mục tạm thời – temporary: Bao gồm các sản phẩm hiện không được sản xuất trong TPP nhưng có thể có tương lai và vì thế danh mục sẽ chấm dứt hiệu lực sau một thời gian (3 năm), sau đó thì các sản phẩm này sẽ áp dụng quy tắc yarn-forward như bình thường.
Các sản phẩm thuộc 2 danh mục này sẽ áp dụng quy tắc cut-and-sew (nhà sản xuất trong TPP có thể sử dụng vải nguyên liệu mua từ bất kỳ nơi nào để sản xuất ra sản phẩm may mặc mà vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan theo TPP.
Như vậy, có vẻ như các nhà đàm phán Hoa Kỳ đang muốn tìm lối thoát cho đàm phán về vấn đề này, còn các nhà sản xuất nội địa Hoa Kỳ cũng đang phải chấp nhận thay đổi quan điểm về vấn đề này (trước đây họ nhất nhất đòi yarn-forward toàn bộ, nay cũng đã chấp nhận có ngoại lệ/linh hoạt, tất nhiên vẫn nhấn mạnh “lo ngại” (ví dụ, họ lo sợ là danh sách ngoại lệ yarn-forward sẽ rất dài hoặc thời hạn cho danh mục tạm thời sẽ dài…)). Ví dụ TPP Apparel Coalition đề xuất ngoài loại áp dụng cut-and-sew (mà họ muốn hạn chế càng nhiều càng tốt) thì có thêm danh mục áp dụng “tỷ lệ nội vùng” tương tự FTA Mỹ - Israel (thậm chí coi đây là nguyên tắc lớn tương tự yarn-forward chứ không chỉ là ngoại lệ của yarn-forward)
Trong khi đó, các nhà bán lẻ và nhà nhập khẩu lại đứng về phía các nước xuất khẩu, đòi bỏ hoàn toàn yarn-forward. Trong quá khứ, nhiều FTA của Hoa Kỳ đã áp dụng yarn-forward kèm theo nhiều ngoại lệ.
Phần lớn các nước TPP (trừ Hoa Kỳ, Peru, Mexico) phản ánh rằng các bên liên quan trong nước của họ phản đối ý tưởng về quy tắc yarn-forward:
+ Việt Nam và Úc là 2 nước phản đối mạnh nhất: Việt Nam thì dệt may là sản phẩm xuất khẩu chủ lực trong khi nguyên liệu lại nhập khẩu từ nhiều nước không thuộc TPP, Úc thì có một khu vực dệt may nhỏ và dựa vào sợi nhập khẩu là chủ yếu nên họ muốn bảo vệ.
+ Mexico thì ngành sản xuất nội địa ý kiến vẫn chưa thống nhất, Chính phủ thì có vẻ ủng hộ yarn-forward để bảo vệ ngành sản xuất đã gây dựng dựa trên NAFTA; Peru thì ủng hộ yarn-forward vì nước này muốn bảo vệ ngành dệt kim sản xuất trong nước hoàn toàn của họ
+ Canada coi đây là cơ hội để cải thiện quy tắc yarn-forward trong NAFTA (được coi là đã cản trở ngành dệt may của Canada – trong NAFTA, Canada có quyền hưởng ưu đãi thuế quan cho một lượng sản phẩm nhất định trong quota mà ko cần đáp ứng quy tắc yarn-forward)
+ Việt Nam vốn phản đối mạnh mẽ yarn-forward nhưng gần đây có thông tin cho thấy ngành dệt may Việt Nam chuyển hướng - không phản đối hoàn toàn yarn-forward nếu được hưởng “lộ trình 5 năm cho cut-and-sew” (phía nội địa Hoa Kỳ thì phản đối, cho rằng 5 năm đủ để dệt may Việt Nam tăng mạnh, đè bẹp sản xuất nội địa của Mỹ).
4. Về đề xuất SPS của Hoa Kỳ
Theo thông tin cho biết thì USTR vẫn tiếp tục xây dựng đề xuất SPS sửa đổi liên quan tới các điều khoản thực thi các biện pháp SPS (enforceability) và chưa đưa ra bàn thảo trong Vòng 15 TPP. Trong khi đó, ngành nông nghiệp HK đang vận động mạnh để USTR đàm phán cho Chương SPS thực thi được theo các điều khoản về giải quyết tranh chấp trong TPP (có thể kiện theo cơ chế giải quyết tranh chấp trong TPP). Nếu không đạt được điều này, các vi phạm Chương SPS của TPP trong tương lai sẽ chỉ có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, mà cơ chế này thì chỉ xem xét các điều khoản SPS tương tự WTO chứ không phải SPS WTO+
USTR thì có vẻ không muốn nhấn mạnh các điều khoản WTO + về SPS vì điều này sẽ khiến Hoa Kỳ bị hạn chế quyền tự do trong việc đưa ra các quy định SPS nội địa của mình (ví dụ FDA muốn bảo lưu quyền quy định này)
SPS là chủ đề quan tâm đặc biệt của ông Chủ tịch tương lai (2013) của Tiểu ban Ways and Means của Hạ viện Hoa Kỳ và ông này vốn đã thường xuyên gây sức ép để USTR chấp nhận yêu cầu của ngành nông nghiệp Hoa Kỳ về vấn đề thực thi các điều khoản SPS trong TPP (tuy nhiên ông này chỉ yêu cầu USTR đạt mục tiêu đó mà không can thiệp tới cách làm của USTR).
5. Về Chương lao động
Đây cũng là một chương gây nhiều tranh cãi trong TPP. Hoa Kỳ đưa ra trong đề xuất Chương lao động của mình các hình phạt tiền và cả trừng phạt thương mại/trade sanctions (dựa trên khối lượng thương mại bị ảnh hưởng bởi các vi phạm quy định về lao động) theo cách tiếp cận của FTA Hoa Kỳ - Peru (FTA đầu tiên của Hoa Kỳ có quy định: tương tự như vi phạm thương mại, các vi phạm lao động và môi trường cũng sẽ bị xử lý bằng các biện pháp phạt tiền và trừng phạt thương mại); Hoa Kỳ cũng đòi các nước phải chấp nhận và thực thi trong pháp luật nội địa các quyền nêu tại Tuyên bố về các Quyền lao động cơ bản ILO 1998 và nhiều tiêu chuẩn khác thậm chí cao hơn FTA Mỹ - Peru.
Tuy nhiên, phần lớn các nước phản đối nghĩa vụ thi hành đầy đủ các quyền lao động mà Hoa Kỳ đề xuất.
Canada, nước vốn ủng hộ các FTA có các điều khoản về lao động, tiếp cận vấn đề này theo cách của NAFTA, tức là chỉ giới hạn các biện pháp xử lý vi phạm các điều khoản về lao động ở các biện pháp phạt tiền; Mexico thì có vẻ không thực sự ủng hộ NAFTA nhưng chưa có chính kiến rõ ràng.
Vietnam, Malaysia và Brunei từ đầu đã phản đối các điều khoản thực thi lao động này; mới đây, Úc và New Zealand cũng gia nhập nhóm phản đối này
Úc và New Zealand vốn có tiêu chuẩn lao động cao, nhưng họ lo sợ rằng Chương lao động của TPP sẽ không có ý nghĩa gì nếu 3 nước nói trên quyết tâm đứng ngoài
+ Cũng có ý kiến cho rằng phản đối này của Úc, New Zealand chẳng qua là hình thức để buộc Hoa Kỳ phải chấp nhận mở cửa thị trường nông sản (với Úc: hiện tại Úc muốn HK xem xét lại phần nội dung này trong FTA song phương trong khi HK lại không muốn);
+ Có nguồn tin khác nói New Zealand ủng hộ các điều khoản lao động trong P4 mà nước này cùng với Sing, Chile và Brunei là thành viên (ở mức tiêu chuẩn thấp hơn yêu cầu của Hoa Kỳ trong TPP bởi không tạo ra các nghĩa vụ mới, bắt buộc và có thể bị khiếu kiện về các quyền lao động)
6. Về mở cửa đối với các sản phẩm sữa
Đây là vấn đề gây tranh cãi giữa Úc, New Zealand và Hoa Kỳ. Trong khi Hoa Kỳ lo ngại mở thị trường Hoa Kỳ cho 2 nước này sẽ khiến thị trường này tràn ngập các sản phẩm sữa của Úc, New Zealand thì Úc và New Zealand lại cho rằng lo ngại như vậy là không có cơ sở bởi:
+ Hai nước này muốn Hoa Kỳ mở cửa không phải chỉ để thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ mà để thông qua Hoa Kỳ tiếp cận các thị trường Thái Bình Dương khác (ví dụ Canada, Mexico và hy vọng là cả Nhật khi nước này tham gia TPP)
+ Sự sụt giảm đáng kể lượng nhập khẩu sản phẩm sữa của hai nước này vào Hoa Kỳ trong thời gian 5 năm qua không phải là nhờ những biện pháp rào cản ở Hoa Kỳ mà bởi sự chuyển hướng thương mại của hai nước (ví dụ New Zealand giảm tới 40% xuất khẩu sữa sang Hoa Kỳ do nước này chuyển mục tiêu xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng hơn ở Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Trung Quốc theo FTA New Zealand-Trung Quốc; với Úc thì lý do là tình trạng hạn hán kéo dài trong vài năm qua tại nước này khiến sản lượng sụt giảm nghiêm trọng)
Hiện tại, New Zealand hiện chưa có thỏa thuận thương mại nào với Hoa Kỳ về vấn đề này, còn Úc đã có FTA với Hoa Kỳ nhưng Hoa Kỳ không mở cửa hoàn toàn cho sản phấm sữa của Úc và hiện chỉ một số sản phẩm sữa Úc đang hưởng ưu đãi khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ theo quota thuế quan (TRQs), vì thế Úc muốn đàm phán lại với Hoa Kỳ về vấn đề này trong TPP.
Bên cạnh đó, Úc và New Zealand cũng muốn tiếp cận thị trường Canada và Mexico thông qua TPP bởi
+ Đây là 2 thị trường tiềm năng
+ Mexico đang áp dụng thuế quan cao đối với sản phẩm này của New Zealand (và New Zealand nhìn thấy cơ hội giảm thuế là có khả năng bởi Mexico đã đồng ý loại bỏ thuế cho sản phẩm này trong NAFTA)
+ Canada hiện đang duy trì bảo hộ với sản phẩm sữa thông qua hệ thống kiểm soát cung cấp (giới hạn việc nhập khẩu và sản xuất tại Canada để giữ giá cao cho các sản phẩm của nông dân nước này). Canada không tỏ dấu hiệu nào cho thấy sẽ đồng ý thay đổi hệ thống này trong đàm phán TPP nhưng tin tức cho biết nước này có thể cho phép sữa EU vào với TRQs.
7. Về Cơ chế Giải quyết tranh chấp Nhà nước – nhà đầu tư
Vấn đề này dường như không được đề cập trong Vòng 15 TPP. Tuy nhiên, trong Vòng 14 và các vòng trước đó, đây là vấn đề mà Úc đặc biệt nhấn mạnh (bên cạnh vấn đề mở cửa thị trường cho sản phẩm sữa nước này). Úc muốn là ngoại lệ (không tham gia) cơ chế giải quyết tranh chấp Nhà nước – Nhà đầu tư trong TPP.
Theo giới quan sát, Úc thậm chí đã phản đối/block một loạt các đề xuất của Hoa Kỳ ở các vấn đề vốn có rất ít quan trọng với Úc như SOEs, thương mại điện tử, đầu tư, hải quan, môi trường chỉ để Hoa Kỳ phải chấp nhận 2 yêu cầu tiên quyết này của Úc.
Tổng hợp và biên tập: Trung tâm WTO - VCCI
Nguồn: insidetrade.com
- Ông Trump sắp áp thuế quan 25% lên toàn bộ thép và nhôm nhập khẩu
- EU dự kiến miễn thuế carbon xuyên biên giới cho phần lớn doanh nghiệp nhập khẩu
- Tận dụng tối đa các FTA để gia tăng kim ngạch xuất khẩu
- Nâng cấp ATIGA thành hiệp định hiện đại, hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp
- Xuất khẩu hàng hóa và những rào cản lớn