Tin tức

Thuế giảm sâu, mật ong Việt vẫn không cạnh tranh nổi ở Hoa Kỳ

25/04/2022    45

Mức thuế chống bán phá giá (CBPG) áp dụng cho mật ong Việt Nam XK vào Hoa kỳ trong kết luận mới đây dù đã giảm nhiều lần so với kết luận sơ bộ, song mật ong Việt Nam vẫn không thể cạnh tranh nổi với mật ong Ấn Độ tại thị trường này. Ngành nuôi ong cần tiếp tục đấu tranh để phía Hoa Kỳ có điều chỉnh hợp lý hơn.

Tiến bộ nhưng chưa thoả đáng

Mới đây, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã ban hành kết luận cuối cùng về mức thuế trong vụ việc điều tra CBPG mật ong NK từ Argentina, Brazil, Ấn Độ và Việt Nam. Theo đó, thuế CBPG dành cho các DN Việt Nam đã giảm rất mạnh, từ mức 410,93% - 413,99% trong kết luận sơ bộ xuống còn 58,74% - 61,27%.

Đánh giá về con số này, ông Đinh Quyết Tâm, Chủ tịch Hội nuôi ong Việt Nam cho rằng: so với kết luận sơ bộ, biên độ phá giá cho các DN Việt Nam ở kết luận cuối cùng giảm gần 7 lần. Tuy nhiên, về mặt thương mại lại không có ý nghĩa nhiều. Bởi lẽ, trong khi mức thuế CBPG mà Hoa Kỳ áp dụng cho Ấn Độ chỉ ở mức 5,85%, mức áp dụng đối với Việt Nam lại ở con số 58,74% - 61,27%. Đây là con số quá cao. “Kết quả này đã tiến bộ nhưng vẫn chưa thỏa đáng. Cơ sở để tính ra con số 410,93% - 413,99% lúc đầu và 58,74% - 61,27% hiện nay chưa hợp lý. Với mức thuế này, mật ong của Việt Nam không thể cạnh tranh được mật ong của Ấn Độ tại thị trường Hoa Kỳ”, ông Tâm nói.

Ông Lê Triệu Dũng, Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) cho biết: trong quá trình điều tra vụ việc, Bộ Công Thương đã phối hợp với các bộ, ngành nhiều lần bày tỏ quan điểm với phía Hoa Kỳ, đề nghị Hoa Kỳ đánh giá khách quan, công bằng, tuân thủ đúng các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới. Bộ Công Thương cũng cho rằng kết quả này vẫn chưa phản ánh đúng thực tế tình hình sản xuất, XK mật ong của Việt Nam.

Tiếp tục đấu tranh

Ông Đinh Quyết Tâm phân tích, điều kiện kinh tế-xã hội và sản xuất của Việt Nam và Ấn Độ tương đương nhau. Sản phẩm mật ong của Việt Nam và Ấn Độ gần tương đồng như nhau. Số lượng XK mật ong của Việt Nam và Ấn Độ vào thị trường Hoa Kỳ cũng như nhau (khoảng trên 50.000 tấn), phân khúc thị trường, giá cả không chênh nhau nhiều. Ấn Độ và Việt Nam cùng trong nhóm đối tượng của điều tra CBPG. Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường và DOC lấy giá của Ấn Độ làm giá trị thay thế để tính toán.

“Hội nuôi ong Việt Nam và các đối tượng điều tra CBPG đều đã cung cấp tất cả các số liệu cần thiết cho DOC. Tuy nhiên, mức thuế CBPG của Việt Nam phải chịu cao hơn 10 lần so với của Ấn Độ. Cơ sở nào để đưa ra kết quả chênh nhau nhiều như vậy? Trong khi thu nhập bình quân đầu người của Ấn Độ cũng như ngày công lao động của người nuôi ong Ấn Độ cao hơn Việt Nam”, ông Tâm nói.

Nhắc lại con số áp thuế của Hoa Kỳ chưa thực sự công bằng cho các nhà nuôi ong Việt Nam, ông Tâm nhấn mạnh cần phải tiếp tục đấu tranh để phía DOC có những tính toán hợp lý hơn. Ngay cả các nhà NK Hoa Kỳ cũng chưa hài lòng về con số này. Việc áp thuế như hiện nay sẽ gây thiệt hại không chỉ riêng đối với người sản xuất và ngành mật ong của Việt Nam mà còn thiệt hại ngay cho nhà sản xuất và NK Hoa Kỳ. Hơn 30 năm qua, các nhà NK Hoa Kỳ là bạn hàng truyền thống, họ đã dùng nguyên liệu của Việt Nam, phân khúc thị trường và người tiêu dùng đã quen với sản phẩm này. Nếu công bằng thì mức thuế áp cho Việt Nam phải bằng hoặc thấp hơn mức thuế CBPG mà Hoa Kỳ áp cho Ấn Độ.

Ông Lê Triệu Dũng khẳng định: “Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan, Hội nuôi ong Việt Nam và các DN XK mật ong Việt Nam trao đổi với các cơ quan của Hoa Kỳ ở các giai đoạn tiếp theo (đánh giá thiệt hại, rà soát thuế CBPG…) nhằm hỗ trợ ngành mật ong Việt Nam được đối xử công bằng trong vụ việc này theo đúng các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới, đảm bảo quyền lợi chính đáng của các DN XK mật ong Việt Nam”.

Bên cạnh việc đàm phán, kiến nghị DOC xem xét lại mức thuế CBPG hợp lý, trong thời gian qua, Hội nuôi ong Việt Nam và các DN cũng đang cố gắng thay đổi quy trình sản xuất, có được sản phẩm phù hợp với các thị trường khác như EU, ASEAN.... “Chúng ta không thể thay đổi ngay thị trường NK nhưng những dấu hiệu ban đầu cho thấy có nhiều hứa hẹn. Các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội, ngành hàng, DN và ngay cả người sản xuất đã bước đầu có những sự thay đổi để phù hợp với thị trường mới”, ông Tâm thông tin thêm.

Nguồn: Tạp chí Hải quan