Nghiên cứu khả năng đàm phán FTA Việt Nam – EU
07/03/2011 38Lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã thể hiện sự đồng thuận trong việc xem xét nghiên cứu khả năng đàm phán một Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa hai bên.
Đó là thông tin từ Hội thảo “Đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU: Cơ hội và thách thức nào cho Việt Nam?” diễn ra tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh trong hai ngày: 2 và 3/3. Hội thảo nằm trong khuôn khổ Chiến dịch vận động chính sách của doanh nghiệp Việt Nam đối với Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-EU của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, được thực hiện trong khuôn khổ Dự án EU-Việt Nam MUTRAP III.
Năm 2010, EU đứng thứ 2 trong các nước xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và đứng thứ 5 trong các nước nhập khẩu vào Việt Nam. Việt Nam hiện là đối tác nhỏ của EU (đứng thứ 31 trong nhập khẩu vào EU và thứ 41 trong xuất khẩu từ EU) nhưng đầy tiềm năng. Việt Nam và EU đã ký Hiệp định khung về hợp tác và phát triển năm 1995. Năm 2010 Việt Nam và EU hoàn thành đàm phán và ký tắt Hiệp định đối tác, hợp tác toàn diện (PCA)... Trong bối cảnh này, việc đàm phán và ký kết một FTA giữa Việt Nam và EU được xem là một bước đi nhiều khả năng được hiện thực hóa trong thời gian tới đây. Tuy nhiên, với tính chất là một cam kết mở cửa thị trường mạnh và sâu trong hầu hết các lĩnh vực thương mại (hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…), FTA Việt Nam-EU nếu được đàm phán và ký kết sẽ có tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và các ngành kinh tế nói riêng?
Nghiên cứu một số FTA mà EU đã ký kết với các nước đang phát triển có điều kiện tương đồng với Việt Nam như Chi Lê, Mexico và Nam Phi cho thấy, các FTA này đều có tác động khả quan đến nền kinh tế các nước. Chẳng hạn, trao đổi thương mại giữa Nam Phi và EU cũng tăng mạnh kể từ khi FTA giữa hai nước có hiệu lực năm 2000 với nhập khẩu từ EU vào Nam Phi năm 2008 tăng 160% so với năm 2001 và xuất khẩu tăng 143%.
Đối với Việt Nam, nghiên cứu của MUTRAP III về tác động dự kiến của FTA Việt Nam-EU đến các khía cạnh của nền kinh tế cho kết quả tích cực. Cụ thể, xuất khẩu của Việt Nam sang EU có thể tăng trưởng trung bình 4% hàng năm (6% đối với các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may, da giày, đồ gỗ với mức cắt giảm thuế quan có thể đến 0%). Trong khi đó nhập khẩu cũng có thể tăng 3,1% hàng năm do các cam kết mở cửa thị trường trong nước. Đầu tư trực tiếp từ EU sang Việt Nam có thể tăng nhờ các cam kết mức độ tự do cao hơn và chất lượng đầu tư sẽ được cải thiện hơn. Các tác động khác như giá cả trong nước, việc làm, mức lương được cải thiện đáng kể… Mặc dù vậy, như đã thấy trong các FTA đã ký của Việt Nam, vẫn có thể có những ngành, những đối tượng chịu tác động bất lợi từ việc mở cửa thị trường theo FTA này.
Trước cơ hội và thách thức mà một FTA giữa Việt Nam và EU có thể mang lại, Việt Nam cần lựa chọn phương án đàm phán, những khuyến nghị thích hợp để FTA thực sự mang lại hiệu quả cho sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Nguồn: Báo Công thương điện tử