FTA - Trợ lực hữu hiệu cho quá trình phục hồi hậu Covid
05/01/2021 117Với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu như Việt Nam, việc ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA) có ý nghĩa đặc biệt bởi chúng là những “con đường ưu tiên” cho hàng hóa xuất nhập khẩu. “Vai trò này của các FTA còn đậm nét trong năm 2020, một năm rất khó khăn cho thương mại quốc tế”, TS. NGUYỄN THỊ THU TRANG, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chia sẻ.
FTA như những con đường “ưu tiên”…
Các FTA tác động như thế nào đến kinh tế nước ta trong năm 2020, một năm đầy khó khăn, thưa bà?
Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Các FTA mà chúng ta đã ký kết tác động tới nền kinh tế từ hai góc độ chủ yếu, một là xuất nhập khẩu (với các FTA truyền thống) và hai là tất cả các khía cạnh thương mại, đầu tư, thể chế (với các FTA thế hệ mới).
Trước hết nói về xuất nhập khẩu. Với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, việc ký kết và thực hiện các FTA có ý nghĩa đặc biệt, bởi chúng là những con đường ưu tiên cho hàng hóa xuất nhập khẩu. Vai trò này của các FTA còn đặc biệt đậm nét trong năm vừa qua, một năm rất khó khăn cho thương mại quốc tế, do cả những yếu tố chủ quan và khách quan.
Một mặt, xu hướng bảo hộ thương mại từ 2018 - 2019 tiếp tục leo thang, gây ra những cản trở lớn cho hoạt động xuất khẩu của chúng ta ở nhiều thị trường. Chỉ tính riêng trong năm 2020, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đã phải đối mặt với 37 vụ kiện phòng vệ ở khắp các thị trường, cao gấp 2,5 lần so với 2019 và chiếm tới gần 1/5 tổng số các vụ kiện từ trước tới nay. Mặt khác, cũng trong năm này, đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng vượt ngoài tầm kiểm soát của nhiều quốc gia. Điều này đã làm gián đoạn đồng thời cả chuỗi sản xuất và dòng chảy thương mại toàn cầu. Ngoại trừ một số ít các trường hợp ghi nhận tăng trưởng nhẹ, hầu như tất cả các nền kinh tế đều suy giảm ở các mức độ khác nhau.
Trong hoàn cảnh như vậy, kết quả xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2020 có thể xem là rất khả quan. Trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5%, trong khi kim ngạch nhập khẩu là 262,4 tỷ USD, tăng 3,6%, dẫn tới kết quả xuất siêu 19,1 tỷ USD, lớn nhất từ trước tới nay.
Đặc biệt, trong những tháng cuối của 2020, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực đã tạo ra bước cải thiện quan trọng cho xuất khẩu của Việt Nam với thị trường này. Chỉ trong vài tháng đầu, đã có tới xấp xỉ 20 nghìn lô hàng Việt Nam đi EU được hưởng ưu đãi thuế theo Hiệp định này. Xuất khẩu sang thị trường EU tăng trở lại sau nhiều tháng giảm sâu mặc dù tình hình dịch Covid-19 ở EU vẫn đang trong giai đoạn phức tạp.
Các FTA trợ giúp cho hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các cơ hội ưu đãi thuế quan, qua đó giúp gia tăng cơ hội cạnh tranh về giá cho hàng hóa. Các FTA cũng giúp giảm bớt các hàng rào phi thuế bất hợp lý, thống nhất và minh bạch hơn về thủ tục, tạo thuận lợi cho dòng chảy thương mại. Trong bối cảnh Covid-19, khi mà hoạt động kinh doanh khó khăn nhiều bề, sự trợ lực từ các FTA lại càng có ý nghĩa hơn.
Còn các FTA thế hệ mới thì sao, thưa bà?
Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Các FTA thế hệ mới như CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) hay EVFTA cam kết mạnh về thể chế, các quy tắc tiêu chuẩn cao, những yêu cầu mới về bảo hộ đầu tư, mở cửa mạnh… Các cam kết về phát triển bền vững trong những hiệp định này được dự báo sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế theo cách thức gián tiếp nhưng với mức độ và phạm vi còn lớn hơn nhiều. Có điều các FTA này đều mới có hiệu lực chưa bao lâu, chắc phải cần thời gian để cảm nhận đầy đủ về tác động của chúng.
Ít có các hành động đi xa hơn cam kết
Với kết quả trên, theo bà, Việt Nam đã tận dụng hiệu quả lợi ích các FTA mang lại chưa? Và lý do vì sao?
Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Nếu chỉ xét riêng về tận dụng cơ hội ưu đãi thuế quan, kết quả thực thi các FTA của chúng ta cũng có thể xem là tương đối tích cực.
Tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan của hàng xuất khẩu cơ bản tăng dần qua các năm, năm 2019 là 37%. Một số FTA đạt mức độ tận dụng cao như FTA với Chile (VCFTA) đạt tỷ lệ gần 68%, hay FTA với Ấn Độ (AIFTA) ở mức 65%. So với các nước trong khu vực, tỷ lệ này tương đối cao và chỉ thấp hơn Thái Lan. So với tỷ lệ tận dụng theo chiều ngược lại của các đối tác FTA khi nhập khẩu vào Việt Nam, tỷ lệ này cũng cao hơn đáng kể.
Về mặt thống kê, với một số thị trường có cùng lúc nhiều FTA với Việt Nam, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan phải cộng gộp các FTA. Ngoài ra, với các thị trường có độ mở lớn, nơi một tỷ lệ đáng kể các dòng thuế thông thường (thuế MFN) đã là 0% thì tỷ lệ tận dụng ưu đãi theo FTA đương nhiên sẽ không cao được. Vì vậy, một số ý kiến cho rằng với tỷ lệ tận dụng ưu đãi khoảng 30 - 40% mỗi FTA, chúng ta đang lãng phí 60 - 70% cơ hội thuế quan cũng không hoàn toàn chính xác đâu.
Tất nhiên, tỷ lệ tận dụng hiện tại vẫn còn thấp so với kỳ vọng, đặc biệt với một số FTA như ACFTA (với Trung Quốc), VN - EAEU (với Liên minh Á - Âu, trong đó có Nga)… Lý do có thể vì doanh nghiệp chưa biết đến các ưu đãi này; cũng có thể do quy tắc xuất xứ quá khó không thể đáp ứng được; do nguồn nguyên phụ liệu phụ thuộc quá lớn vào một vài nguồn cung nằm ngoài FTA; hoặc do quy trình thủ tục ở hai đầu xuất - nhập chưa thuận tiện, không đủ bù đắp cho chi phí doanh nghiệp bỏ ra để được hưởng ưu đãi…
Việc tận dụng FTA từ các góc độ khác, ví dụ cải cách hay đưa Việt Nam lên bậc cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu… thì sao thưa bà?
Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Hiện chưa có đánh giá đầy đủ nào về việc tận dụng FTA từ các góc độ như cải cách thể chế hay cơ cấu lại các ngành kinh tế, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu...
Mặc dù vậy, cảm nhận chung là dường như chúng ta mới chỉ thực hiện FTA ở mức như cam kết yêu cầu. Chúng ta chưa hoặc ít có các hành động đi xa hơn cam kết, ví dụ chủ động thay đổi, cải cách, tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, các ngành và của cả nền kinh tế để tạo sức bật trong tận dụng cơ hội từ các FTA…
Theo quan sát của bà, việc thực thi các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA thời gian qua có vấn đề gì khác biệt so với FTA trước đây? Với các FTA sắp tới như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) hay Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) thì sao?
Bà Nguyễn Thị Thu Trang: CPTPP và EVFTA là hai FTA thế hệ mới lớn nhất và cũng có yêu cầu nghiêm khắc nhất với chúng ta trong thực thi. Các cam kết trong hai Hiệp định này cũng vượt ra khỏi phạm vi truyền thống của các FTA trước đây. Do đó, việc thực thi cũng có nhiều điều khác biệt, phức tạp và khó khăn hơn.
Đặc biệt với CPTPP, việc thực thi ban đầu có những vấp váp. Ví dụ việc ban hành các văn bản thực thi còn chậm, nhiều bất cập thực tiễn liên quan tới quy tắc xuất xứ chưa được xử lý nhanh, việc nội luật hóa một số cam kết còn gây tranh cãi, doanh nghiệp còn ít được tuyên truyền để hiểu và áp dụng cam kết… Tuy nhiên, những va vấp này đã được khắc phục đáng kể khi EVFTA đi vào hiệu lực hồi giữa năm nay.
Với các FTA sắp tới như RCEP hay UKVFTA, tình hình chắc sẽ khả quan hơn. Một mặt là bởi các FTA tiêu chuẩn không vượt qua CPTPP hay EVFTA, thậm chí là thấp hơn đáng kể. Một mặt khác, các quy tắc xuất xứ trong RCEP dường như dễ dàng đáp ứng hơn so với các FTA trước đây.
Tuy nhiên, vấn đề của RCEP lại nằm ở chỗ khác. Trong khi các đối tác CPTPP hay EU phần lớn có cơ cấu sản phẩm bổ sung với Việt Nam thì các đối tác RCEP lại hầu như cạnh tranh trực tiếp. Như vậy doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải sẵn sàng cho tình huống cạnh tranh phức tạp hơn, khó khăn hơn ở cả thị trường nội địa và thị trường RCEP. Nhà nước cũng phải chuẩn bị cho những kịch bản thách thức hơn, ví dụ nguy cơ nhập siêu gia tăng từ các nước RCEP, hay giảm động lực phát triển công nghiệp phụ trợ…
Chúng ta có nhiều việc phải làm!
Kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phục hồi hậu Covid-19, theo bà, các FTA có ý nghĩa như thế nào với hành trình này?
Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Sau Covid-19 hoặc bối cảnh bình thường mới chung sống với Covid-19, nền kinh tế các thị trường dù có mở lại cũng sẽ hạn chế. Dung lượng thị trường thấp, trong khi các nguồn cung lại đang bắt đầu phục hồi mạnh, cạnh tranh chắc chắn sẽ phức tạp. Các FTA có thể hỗ trợ rất đắc lực cho quá trình này, với các ưu đãi thuế quan có thể giúp doanh nghiệp có thêm lợi thế cạnh tranh.
“Xét trên bề mặt thì năm 2020, so với mặt bằng chung, xuất khẩu của Việt Nam với một số đối tác FTA, ví dụ CPTPP hay EU, thậm chí giảm so với 2019. Mặc dù vậy, trong một kịch bản giả định không có các FTA này, có lẽ mức giảm sẽ không nhẹ nhàng như vậy”.
Cũng trong bối cảnh này, quá trình dịch chuyển sản xuất, dịch chuyển vốn đầu tư nước ngoài đang diễn ra mạnh mẽ. Các FTA có thể giúp Việt Nam trở thành một đầu mối kết nối cùng lúc nhiều thị trường, đồng thời nâng cấp khung khổ pháp lý và môi trường kinh doanh Việt Nam, qua đó thêm một điểm cộng trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo bà cần phải làm gì để biến những lợi thế tiềm tàng này của các FTA thành hiện thực?
Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Chúng ta có nhiều việc phải làm. Doanh nghiệp phải chủ động nâng cấp mình về hiểu biết thị trường hay các cam kết và điều kiện ưu đãi, về năng lực cạnh tranh trong mọi khía cạnh. Nhà nước cũng phải vượt lên chính mình, thực hiện các cải cách thể chế không phải chỉ vì FTA đòi hỏi, phải chủ động và thực tâm trong hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Về phía Quốc hội, theo bà Quốc hội có thể làm gì?
Bà Nguyễn Thị Thu Trang: Bên cạnh trách nhiệm nội luật hóa các cam kết theo đúng lộ trình, Quốc hội cần chú trọng việc giám sát Chính phủ cũng như các địa phương trong thực hiện các kế hoạch thực thi FTA, đánh giá định kỳ và xác định rõ trách nhiệm trong việc chưa thực hiện đúng yêu cầu.
Vai trò này của Quốc hội nếu được thực hiện hiệu quả sẽ là một sức ép, cũng là một động lực để nền kinh tế tận dụng tốt cơ hội từ các FTA nói riêng và từ hội nhập nói chung trong bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn và khó đoán định.
Xin trân trọng cảm ơn bà!
- Khảo sát nhanh (2'): Yêu cầu thẩm định chuỗi cung ứng của một số thị trường EU đối với hàng xuất khẩu Việt Nam
- Đàm phán song phương về thương mại đối ứng Việt Nam-Hoa Kỳ đạt nhiều tiến bộ
- Canada có thể áp thêm thuế đối với thép và nhôm của Mỹ
- Việt Nam muốn cùng Mỹ xây dựng quy tắc xuất xứ hài hòa
- Đàm phán thuế quan chưa kết thúc, một mặt hàng Việt Nam bị Mỹ điều tra với cáo buộc bán phá giá 152%