Tin tức

Triển vọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ EVFTA

28/02/2020    310

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) là một hiệp định (HĐ) lớn cả về quy mô thị trường đối tác, phạm vi các vấn đề cam kết, mức độ tự do hóa…

Vì vậy, EVFTA được kỳ vọng sẽ thúc đẩy trao đổi thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU), từ đó đem lại nhiều lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế. Đây là chia sẻ của ông Nguyễn Đức Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) với phóng viên TBTCVN.

PV: Ông đánh giá như thế nào về tác động của EVFTA tới nền kinh tế Việt Nam, khi mới đây HĐ này đã được Nghị viện châu Âu thông qua?

Ông Nguyễn Đức Thành: EVFTA là một HĐ lớn cả về quy mô thị trường đối tác, phạm vi các vấn đề cam kết, có mức độ tự do hóa mạnh về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm công... Vì vậy, EVFTA chắc chắn sẽ mở ra triển vọng thúc đẩy thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và khu vực thị trường hơn 500 triệu dân của 28 nước thành viên EU, từ đó tác động mạnh tới tất cả các chỉ số chính của kinh tế Việt Nam. 

Về tăng trưởng, theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), EVFTA góp phần làm tăng GDP thêm ở mức bình quân 2,18 – 3,25% trong giai đoạn 2019 – 2023. 

Về thương mại, cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và EU mang tính bổ trợ hơn là cạnh tranh, nên đây sẽ là một cú huých lớn cho xuất khẩu của Việt Nam. Cũng theo tính toán của Bộ KH&ĐT, EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm khoảng gần 43% vào năm 2025 so với không có HĐ. Ở chiều ngược lại, nhập khẩu của Việt Nam từ EU cũng sẽ tăng do mức thuế quan hiện nay Việt Nam áp dụng với hàng nhập khẩu của EU đang ở mức cao. Tuy nhiên, gia tăng nhập khẩu sẽ không tập trung vào thời điểm ngay sau khi EVFTA có hiệu lực, vì Việt Nam có lộ trình xóa bỏ thuế dài, từ 7 - 10 năm. 

Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), kỳ vọng về đổi mới thể chế, cải thiện môi trường đầu tư do thực hiện HĐ sẽ tạo ra sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó góp phần gia tăng dòng vốn FDI vào Việt Nam trong trung và dài hạn. Đặc biệt, về chất lượng đầu tư, với EVFTA, các đối tác đầu tư có nguồn gốc từ các nước phát triển sẽ có xu hướng tăng, do Việt Nam tăng cường mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp (DN) EU. Cơ cấu lĩnh vực đầu tư cũng có thể thay đổi khi Việt Nam thu hút các đối tác đầu tư mới và các lĩnh vực thu hút đầu tư được mở rộng.  

Ngoài ra, còn rất nhiều tác động tích cực khác rất có ý nghĩa với Việt Nam dù có thể không định lượng được cụ thể như góp phần thúc đẩy cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển bền vững về môi trường, lao động…

Tuy nhiên, bên cạnh các tác động tích cực, việc tham gia và thực thi các cam kết của EVFTA cũng sẽ đặt nền kinh tế Việt Nam trước nhiều thách thức. Đó là những thách thức từ mở cửa thị trường sẽ tạo sức ép lớn hơn cho hàng hóa, dịch vụ của DN trong nước. Cùng với đó là những thách thức xuất phát từ các vấn đề nội tại của nền kinh tế Việt Nam như hạn chế về năng lực cạnh tranh của các DN trong nước, hạn chế từ các thách thức ngành…

PV: Từ những chia sẻ trên, theo ông, cần phải chuẩn bị như thế nào để tận dụng EVFTA hiệu quả, khi HĐ hoàn tất quá trình phê chuẩn và đi vào thực thi?

Ông Nguyễn Đức Thành: Để tận dụng hiệu quả EVFTA, cần sự chủ động cả từ phía Nhà nước và DN.

Về phía Nhà nước, các bộ, ngành chức năng cần khẩn trương rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để chủ động thực hiện hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo phù hợp với EVFTA, cũng như theo đúng với lộ trình đã quy định của HĐ.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần xây dựng các chính sách hỗ trợ, chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành hàng, DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa… phù hợp với cam kết quốc tế. Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính để giảm chi phí giao dịch cho DN, cắt giảm điều kiện kinh doanh… nhằm tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động đầu tư và kinh doanh của DN, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh.

Về phía DN, để được hưởng các ưu đãi thuế quan, DN cần có những giải pháp để đáp ứng được các điều kiện về xuất xứ quy định cụ thể trong EVFTA. Đồng thời, DN cần chuẩn bị những giải pháp ứng phó trước những tác động lớn, trực tiếp từ biến động thị trường quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu…

PV: Ông dự báo như thế nào về mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020?

Ông Nguyễn Đức Thành: Ngay từ đầu năm, trước khi biết thông tin về dịch Covid-19 bùng nổ ở Trung Quốc, chúng tôi đã dự báo tăng trưởng GDP năm nay có thể chỉ đạt khoảng 6,4% - thấp hơn mục tiêu 6,8% mà Nghị quyết Chính phủ đã đặt ra, do một số động lực tăng trưởng của Việt Nam đang có dấu hiệu chững lại.  Hiện nay, do tác động mạnh của dịch Covid-19 ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, có thể làm giảm GPD quý I/2020 từ 1 – 1,5%, thì tăng trưởng GDP cả năm 2020 chúng tôi dự báo có thể còn thấp hơn mức 6,4% là ở ngưỡng khoảng dưới 6%.

Những triển vọng tích cực mở ra khi EVFTA đã được Nghị viện châu Âu thông qua và dự kiến có thể sẽ có hiệu lực vào khoảng nửa sau của năm nay sẽ tác động tích cực và từ từ nâng đỡ cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm tiếp theo. Vì vậy, tôi cho rằng, những tác động tích cực của EVFTA lên nền kinh tế trong năm nay có thể chưa rõ, mà sẽ đến từ năm sau trở đi. 

PV: Xin cảm ơn ông!

Nguồn: Thời báo Tài chính Việt Nam