Tại hội nghị giao ban xuất khẩu sáu tháng đầu năm của Bộ Công Thương với các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp phía Nam, nhiều doanh nghiệp cho rằng vì không đủ vốn nên đã bỏ qua cơ hội mua nguyên liệu giá rẻ và có thể sẽ mất cơ hội có được mức lợi nhuận cao nhờ giá xuất khẩu hàng hóa tăng mạnh.

Nhiều hợp đồng nhưng thiếu vốn

Đối với hàng nông sản, ngoài mặt hàng gạo, sắn lát khó khăn về đầu ra thì các mặt hàng khác đều có triển vọng tốt về xuất khẩu trong năm nay. Năm 2010, do thời tiết không thuận nên mùa vụ thất bát. Chánh văn phòng Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, ông Trần Đức Tụng cho biết, vụ mùa hồ tiêu năm nay trên thế giới sản lượng giảm từ 20-25%, sản lượng tiêu của Việt Nam cũng giảm xấp xỉ 20%. Sản lượng của ngành điều năm 2010 cũng giảm từ 20-30%. 

Do sản lượng giảm nên giá cả xuất khẩu của các mặt hàng nông sản như điều, tiêu đứng ở giá cao. Đại diện Hiệp hội Điều cho rằng, giá điều nhân xuất khẩu trong 6 tháng cuối năm có thể sẽ tăng thêm 14% nữa so với mức giá hiện nay. Hiện tại, rất nhiều doanh nghiệp điều đã kí được hợp đồng với giá rất tốt.

Dù tình hình xuất khẩu khả quan về lượng cũng như giá, tuy nhiên, các hiệp hội cho rằng, do không tiếp cận được với nguồn vốn nên các doanh nghiệp trong ngành không thể dự trữ đủ nguyên liệu cho sản xuất. 

Ông Phạm Văn Công, Phó chủ tịch Hiệp hội Điều Việt Nam cho biết, do lãi suất lên cao trong thời điểm các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu cho nên các doanh nghiệp ngành điều mới chỉ mua được 300.000 tấn điều thô trong nước và nhập khẩu khoảng 100.000 tấn. Hiện ngành điều cần có 1.100 tỷ đồng để mua hết lượng hạt điều thô còn tồn đọng trong nước khoảng 50.000 tấn và 5.700 tỷ đồng để nhập khẩu 350.000 tấn điều thô đáp ứng cho nhu cầu sản xuất 6 tháng cuối năm. 

Giá điều thô nhập khẩu đang ở mức 1.100 USD/tấn. Đến nay, ngành điều đã sản xuất gần hết lượng nguyên liệu đã thu mua được. Năng suất sản xuất của ngành điều Việt Nam là 650.000 tấn/năm.

Còn đối với ngành cà phê, do không có tiền nên các doanh nghiệp chỉ mua dự trữ được 7-8% so với kế hoạch là 200.000 tấn trong lúc giá cà phê xuống thấp ở thời gian qua. Như vậy, doanh nghiệp cà phê trong nước lại càng chịu thêm nhiều áp lực với các đơn vị liên doanh với nước ngoài. 

Chủ động điều tiết thu mua hàng dự trữ

Trong lúc các doanh nghiệp trong nước 95% vốn kinh doanh là phải đi vay thì buộc phải bán hàng trước để có tiền, không có điều kiện trữ hàng để bán được lúc giá cao. Trong khi đó, các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài vốn sẵn nên dìm giá cà phê trong nước xuống thấp để gom hàng. Đến lúc doanh nghiệp trong nước tiếp cận được tiền vốn thì nguồn hàng trên thị trường đã cạn.

6 tháng cuối năm là thời gian kinh doanh chính của ngành gỗ nhưng hiện tại các doanh nghiệp chế biến gỗ cũng không có tiền để nhập khẩu nguyên liệu. Trong khi nguyên liệu cho ngành gỗ trên thế giới và trong nước đang khan hiếm.

Ông Tụng cho biết thêm đến thời điểm này, Việt Nam đã xuất khẩu được 72.000 tấn hồ tiêu, chiếm gần 80% sản lượng của ngành. Như vậy, từ nay cho đến cuối năm, ngành hồ tiêu Việt Nam chỉ cần tính toán làm sao để bán được giá tốt nhất. Hiện lượng tiêu trong dân còn tích trữ rất ít. Giá tiêu trong nước cũng đang đứng ở mức rất cao, tăng liên tục từ 40.000 đồng/kg lên đến gần 70.000 đồng/kg ở thời điểm này. Năm nay khó có thể hoàn thành chỉ tiêu mà Bộ Công Thương đề ra là 145.000 tấn.

Không phải năm nào mặt hàng nông sản cũng có được giá xuất khẩu cao như năm nay cho nên cần tận dụng cơ hội để mang về lượng kim ngạch lớn từ xuất khẩu của các ngành hàng có nhiều thuận lợi. Như ý kiến từ đại diện ngành cà phê, cần có phương án chủ động điều tiết thu mua hàng dự trữ, không phải đợi đến lúc thị trường mất giá hàng hóa ế mới bàn đến chuyện mua tạm trữ. Vấn đề dự trữ nguyên liệu phải tính đến mức độ thực hiện thường xuyên. Lâu nay, các doanh nghiệp Việt Nam quen kiểu mua đâu bán đó chưa có khái niệm "mua thời vụ, bán thời giá" nên giá trị mang lại chưa lớn.

Ngành rau củ quả được đánh giá là có nhiều đổi mới nhưng kết quả cũng chưa đạt được như sự mong đợi. Do chưa đạt được hiệu quả trong mối liên kết khép kín giữa các khâu từ sản xuất đến nhà máy và xuất khẩu nên chất lượng rau quả tươi không đạt yêu cầu. Ngành cao su và chè đều đạt được mức tăng trưởng về xuất khẩu nhưng cũng gặp không ít khó khăn.

Bên cạnh vốn, để giữ vững tốc độ phát triển về xuất khẩu, đại diện các ngành nghề kiến nghị cần sự hỗ trợ các chính sách của các bộ ngành trong công tác tiếp cận vốn, đổi mới công nghệ sản xuất và mở rộng thị trường. 

Trong sáu tháng đầu năm, cả nước đã xuất khẩu đạt 32,47 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kì 2009. Nhóm hàng công nghiệp chế biến và nhóm hàng nông sản, thủy sản phần lớn đều tăng trưởng khá, riêng nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản giảm về kim ngạch xuất khẩu.

Nguồn: Báo điện tử - Thời báo Kinh tế Việt Nam