Theo Chiến lược ngành gỗ, đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đạt 5,4 tỷ USD và nâng lên 7 tỷ USD vào năm 2020. Đơn hàng xuất khẩu lớn song nhu cầu nguyên liệu gỗ cho ngành tăng cao khiến nhu cầu nhập khẩu cũng tăng mạnh.

5 tháng đầu năm 2010, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 1,4 tỷ USD, tăng 35% so với cùng kỳ năm 2009, mục tiêu xuất khẩu gỗ năm 2010 đạt 3 tỷ USD là hoàn toàn khả thi. Xuất khẩu đồ gỗ, đặc biệt là đồ gỗ ngoài trời của Việt Nam trong thập niên vừa qua tăng rất mạnh, đã đưa Việt Nam vào nhóm 15 nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất trên thế giới (FAO). Thị trường chính của đồ gỗ Việt Nam là Hoa Kỳ (44%); EU (29%); Nhật Bản (10%); Trung Quốc (3%); Đài Loan (1%). Trong thời gian khủng hoảng tài chính và kinh tế gần đây, đang có một số nỗ lực tìm kiếm các thị trường mới như Nga, Trung Đông nhưng quy mô chưa lớn.

Chủ tịch Hiệp hội gỗ lâm sản Việt Nam (Viforest), để đạt được giá trị kim ngạch theo chiến lược đề ra, lượng gỗ cho chế biến năm 2010 là 6,4 triệu m3 và năm 2020 là 16,1 triệu m3. Với tình hình tài nguyên rừng như hiện nay thì lượng gỗ trong nước đến năm 2010 cung cấp được 1,6 triệu m3 gỗ lớn; năm 2015 cung cấp được 5 triệu m3 và năm 2020 cung cấp được 12 triệu m3. Như vậy, từ năm 2010 đến 2020 Việt Nam vẫn phải nhập từ 4-5 triệu m3 gỗ/năm. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến giá trị gia tăng sinh ra tại Việt Nam của đồ gỗ xuất khẩu. Gỗ rừng trồng tuy hàng năm có lượng khai thác lớn (5 triệu m3/năm) nhưng chủ yếu là gỗ nhỏ phục vụ cho sản xuất dăm giấy, bột giấy và ván nhân tạo, dùng cho đồ mộc xuất khẩu chỉ chiếm dưới 15%.

Như vậy, ngành công nghiệp gỗ Việt Nam còn phụ thuộc quá lớn vào nguồn gỗ nhập khẩu. Có tới 80% gỗ nguyên liệu sử dụng trong các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam là từ nguồn nhập khẩu, vừa tạo ra ít giá trị gia tăng vừa tiềm tàng những rủi ro lớn về giá cả, về rào cản thương mại và rốt cục làm giảm khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp. Một mặt, các nước xuất khẩu gỗ xem xét lại chuỗi giá trị, họ sẽ ban hành các chính sách giảm hoặc không xuất gỗ tròn và gỗ xẻ.

Một khó khăn nữa là những sản phẩm gỗ Việt Nam chưa có thương hiệu, được bán dưới những thương hiệu của nước ngoài, mặc dù Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm lớn về chế biến và xuất khẩu đồ gỗ trên thế giới, có quan hệ kinh doanh sâu rộng, kể cả mua nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm, với thị trường toàn cầu. Cụ thể là những đồ mộc phần lớn do Việt Nam sản xuất nhưng mang thương hiệu của người khác, nên giá trị gia tăng thấp.

Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến gỗ chưa theo kịp với yêu cầu của thị trường về nâng cao chất lượng sản phẩm và với sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng. Việc cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế không thể tách rời việc đầu tư vào công nghệ mới có năng suất cao hơn, chi phí nhỏ hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn. Tuy nhiên, việc đầu tư công nghệ mới  lại yêu cầu nguồn vốn lớn do đó cần có chiến lược tài chính phù hợp nhằm tìm kiếm được những nguồn đầu tư tin cậy, có hiệu quả để đổi mới công nghệ của mình.

Ngành gỗ thiếu đội ngũ người lao động có kỹ thuật cao, số lao động chiếm khoảng 3-5%, công nhân kỹ thuật khoảng 25-30%; lao động phổ thông gần 70-75%... Việc sản xuất chủ yếu vẫn dựa trên lấy số lao động không có tay nghề thay thế cho lao động được đào tạo. Thực tế này gây không ít trở ngại cho doanh nghiệp trong cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất và không tạo ra những cơ hội cho sự phát triển về sau.

Thị trường đồ gỗ nội địa chưa được quan tâm đúng mức. Theo đánh giá của một số chuyên gia, quy mô thị trường đồ gỗ trong nước của Việt Nam khoảng từ 0,8-1 tỷ USD. Tuy nhiên, cá doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự chú trọng đến thị trường này nên đồ gỗ nước ngoài từ Đài Loan, Singapore và một số nước khác đang chiếm thị phần cao hơn.

Nguồn thông tin về công nghệ chế biến và thương mại gỗ Việt Nam vừa thiếu lại vừa lạc hậu và thông tin chưa được phân tích xử lý để có được các số liệu thông tin chính thống và chính xác. Thông tin doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay rất sơ sài phiến diện, không đầy đủ. Thực tế đó gây khó khăn rất lớn cho bản thân các doanh nghiệp, cho các cơ quan tổ chức muốn hỗ trợ doanh nghiệp.

Theo Viforest, để ngành này phát triển thuận lợi hơn, công nghiệp gỗ Việt Nam cần hoàn thiện các cơ chế chính sách và tạo nên những điều kiện thuận lợi nhất, đặc biệt là về cơ chế, chính sách, về hạ tầng kỹ thuật, về thủ tục hành chính, hỗ trợ kỹ thuật trong quan hệ giao thương và chính sách lao động, thuế… Cần hoàn thiện các các cơ chế chính sách đã bộc lộ sự bất cập sau khủng hoảng kinh tế thế giới để thúc đẩy ngành công nghiệp gỗ Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới; giảm dần sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu bằng việc ổn định diện tích rừng trồng sản xuất 3 triệu ha vào năm 2015 và 4 triệu ha vào năm 2020. Đồng thời, xây dựng một trung tâm dữ liệu và cung cấp thông tin một cách kịp thời và chuẩn xác cho ngành công nghiệp gỗ Việt Nam.

Nguồn: InfoTV