Việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã mang lại nhiều cơ hội và có những tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, thực thi các cam kết FTA cũng đặt ra không ít thách thức đối với nền kinh tế nói chung và thu ngân sách nhà nước nói riêng.

Thúc đẩy cơ cấu lại ngân sách nhà nước

Việt Nam đã tham gia sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu và chuyển hóa được các lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế thành những kết quả cụ thể trong việc tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hóa - dịch vụ; phát triển các khu vực kinh tế trong nước và xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Từ đó, tăng khả năng hấp thụ khoa học công nghệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế..., thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước phát triển hơn trong khu vực và thế giới.

Hiện nay, Việt Nam có 16 Hiệp định thương mại tự do đã được đưa vào thực thi với hơn 60 đối tác, hầu hết là những nền kinh tế lớn phủ rộng khắp các châu lục, chiếm gần 90% GDP toàn cầu, đưa nước ta trở thành một trong 20 quốc gia dẫn đầu thế giới về quy mô thương mại quốc tế với tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và liên tục đạt kỷ lục về xuất siêu. Năm 2023 là năm thứ 8 liên tiếp xuất siêu đạt khoảng hơn 28 tỷ USD. Đây là thời kỳ xuất siêu dài nhất trong nhiều năm qua. Nếu trước đây hầu hết là nhập siêu, có xuất siêu cũng rất ít và dài nhất cũng chỉ 2 - 3 năm, với mức rất nhỏ nhoi. 9 tháng năm 2024 xuất siêu đã đạt khoảng 20,79 tỷ USD.

Theo Bộ Tài chính, ở góc độ tích cực, việc tham gia vào các FTA thế hệ mới với mức độ cam kết sâu rộng hơn và lộ trình cắt giảm thuế nhanh hơn đã và đang mở ra nhiều cơ hội mới thúc đẩy hoạt động thương mại hai chiều giữa Việt Nam với các quốc gia và khu vực khác.

Việc sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế, phí, lệ phí trong giai đoạn vừa qua đã góp phần động viên hợp lý, kịp thời nguồn lực cho ngân sách nhà nước (NSNN) theo hướng bền vững hơn, giảm sự phụ thuộc vào nguồn thu từ thuế nhập khẩu, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và giải quyết việc làm. Tổng thu nội địa chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu NSNN. Nếu như năm 2011 chỉ chiếm 63,7% thì đến 10 tháng năm 2024, thu nội địa ước đạt trên 83% tổng thu ngân sách.

Đặc biệt, nguồn thu NSNN đa dạng hơn, thu từ các sắc thuế gắn với sản xuất và tiêu dùng trong nước có xu hướng ngày càng tăng, đáng kể nhất là thuế giá trị gia tăng, thuế bảo vệ môi trường và thuế thu nhập cá nhân. Sự gia tăng vai trò của các khoản thu này đã làm cho hệ thống thu NSNN của Việt Nam có tính bền vững hơn.

Bảo đảm hiệu quả quản lý thuế, chống thất thu

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, việc gia nhập các FTA cũng đem lại cho nền kinh tế Việt Nam không ít thách thức cần phải vượt qua để phát triển, bắt kịp với xu thế hội nhập của thế giới.

Theo phân tích của TS. Hoàng Trung Đức – Khoa Tài chính công (Học viện Tài chính), một trong những cam kết quan trọng của các FTA là việc giảm hoặc xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa từ các đối tác FTA. Mặc dù điều này giúp thúc đẩy thương mại và tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng nghĩa với việc giảm một phần nguồn thu từ thuế nhập khẩu, vốn là một nguồn thu quan trọng của NSNN. Mặc dù việc giảm thuế nhập khẩu mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước và người tiêu dùng, nhưng trong ngắn hạn lại gây khó khăn cho NSNN, đặc biệt khi các nguồn thu thay thế chưa được phát triển đầy đủ.

Bên cạnh đó, việc mở cửa thị trường theo cam kết trong các FTA cũng mang lại một số thách thức lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Cụ thể, hàng hóa từ các quốc gia đối tác FTA, với ưu đãi thuế quan, sẽ có giá thành cạnh tranh hơn khi nhập khẩu vào Việt Nam, từ đó tạo ra sức ép lớn đối với các ngành sản xuất nội địa. Khi các doanh nghiệp sản xuất trong nước gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu, họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ giảm doanh thu và lợi nhuận. Điều này dẫn đến việc giảm thu thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản thuế liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

Để ứng phó, giải pháp tiên quyết được các chuyên gia khuyến nghị chính là cải cách mạnh mẽ hơn nữa. Việt Nam phải thực hiện các biện pháp cải cách chính sách thuế và hải quan để bù đắp sự sụt giảm này. Thêm vào đó, cam kết quốc tế cũng yêu cầu Việt Nam phải tuân thủ các chuẩn mực về thương mại công bằng, minh bạch và tự do hóa thuế quan, điều này có thể tạo ra áp lực cải cách đáng kể đối với hệ thống chính sách hiện hành.

Cải cách chính sách thuế và hải quan không chỉ đơn thuần là việc giảm thuế mà còn phải bảo đảm hiệu quả quản lý thuế, chống thất thu thuế, đồng thời đáp ứng các yêu cầu phức tạp về quy tắc xuất xứ và tiêu chuẩn kỹ thuật trong các FTA. Điều này đòi hỏi cơ quan thuế, cơ quan hải quan phải nâng cao năng lực về công nghệ, quy trình kiểm soát và quản lý để bảo đảm tính minh bạch, chính xác và nhanh chóng trong quy trình xử lý thuế quan và xuất nhập khẩu.

Bên cạnh cải cách, ông Nông Phi Quảng – Phó Cục trưởng Cục Thuế xuất nhập khẩu (Tổng cục Hải quan) cho hay, một số giải pháp khác cũng đang được cơ quan hải quan tập trung. Có thể kể đến như, tập trung rà soát, thực hiện kiểm tra tên hàng, mã số, mức thuế tại khâu thông quan, khâu sau thông quan để phát hiện và xử lý các trường hợp khai sai mã số, khai ngụy trang tên hàng hoặc khai tên hàng không rõ ràng, đầy đủ để được áp dụng mức thuế thấp hoặc được hưởng các mức thuế ưu đãi đặc biệt, trong đó tập trung kiểm tra những mặt hàng thuộc danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu rủi ro về phân loại và áp dụng mức thuế.

Ngoài ra là thực hiện kiểm tra trị giá sau thông quan đối với những mặt hàng và doanh nghiệp có rủi ro khai báo sai về trị giá, nhằm xác định đúng trị giá hải quan, trị giá tính thuế; áp dụng các biện pháp kiểm tra, xác minh về tính chính xác, trung thực của thông tin xác định trị giá hải quan do doanh nghiệp xuất trình để phòng ngừa và phát hiện các trường hợp có gian lận giá, từ đó có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

Nguồn: Thời báo Tài chính