Để tận dụng lợi thế từ xuất khẩu chip, Việt Nam phải điều chỉnh chính sách để nâng cao vị thế của mình trong chuỗi cung ứng và giảm sự phụ thuộc vào đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam cũng phải cung cấp đào tạo cho các lĩnh vực công nghệ cao và tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước hoạt động để sản xuất chip 'Make in Vietnam'.

Việt Nam đang đi đầu trong làn sóng bán dẫn, với số liệu gần đây của chính phủ cho thấy Việt Nam hiện là nhà xuất khẩu chip lớn thứ ba sang Mỹ, sau Malaysia và Đài Loan (Trung Quốc).

Đáng chú ý, doanh thu chip tăng 75% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 562 triệu USD vào tháng 2 năm 2023. Nói một cách dễ hiểu, xuất khẩu tất cả các sản phẩm điện tử của Việt Nam sang Mỹ - bao gồm cả chất bán dẫn - chỉ đạt 110 triệu USD vào tháng 2 năm 2013.

Sự gia tăng xuất khẩu chip là một minh chứng cho vị trí chiến lược của Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng Mỹ-Trung. Các công ty bị mắc kẹt trong chuỗi cung ứng chất bán dẫn đã chuyển sang Việt Nam, trong khi các công ty Mỹ cũng mong muốn đa dạng hóa nguồn chip đã tìm được đối tác đáng tin cậy tại Hà Nội.

Để chuyển những lợi ích này thành tăng trưởng dài hạn, Việt Nam phải điều chỉnh chính sách để thúc đẩy đào tạo nghề trong các ngành công nghệ cao và tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, phần lớn chip xuất khẩu của Việt Nam đến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù không có sự cố về chất bán dẫn, nhưng các số liệu chính thức cho thấy 98% hàng điện tử xuất khẩu đến từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Tầm nhìn chiến lược của Việt Nam về chất bán dẫn đã được thể hiện rõ ràng ngay từ năm 2012, khi chính phủ mô tả các sản phẩm này là “hàng hóa và dịch vụ trọng điểm của quốc gia”.

Đầu năm nay, trong buổi tiếp ông John Neuffer, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Bán dẫn Mỹ, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho biết chip là “ưu tiên hàng đầu” của Việt Nam và đề nghị Mỹ đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực này.

Khi chất bán dẫn trở thành trụ cột của nền kinh tế toàn cầu, một ngành công nghiệp trị giá 600 tỷ USD làm nền tảng cho mọi sản phẩm điện tử từ điện thoại thông minh đến máy tính, trọng tâm chiến lược của Việt Nam là rất khôn ngoan.

Với trục kinh tế này, Việt Nam có thể nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, thoát khỏi mô hình lao động giá rẻ và hiện đại hóa nền kinh tế để đáp ứng mục tiêu của chính phủ là trở thành quốc gia phát triển và GDP bình quân đầu người vượt 18.000 USD vào năm 2045, một mục tiêu để kỷ niệm 100 năm Việt Nam độc lập.

Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc thu hút các công ty bán dẫn lớn đầu tư vào Việt Nam. Intel là tập đoàn lớn đầu tiên vận hành một phần quy trình sản xuất chip tại Việt Nam, với nhà máy tại Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp 3 tỷ sản phẩm bán dẫn trên toàn thế giới vào năm 2021.

Các công ty toàn cầu khác như Samsung, Qualcomm, Texas Instruments, SK Hynix, Hayward Quartz Technology, Synopsys và NXP Semiconductors sau đó đã vào Việt Nam. Vào cuối những năm 2010, các công ty trong nước bao gồm Viettel và FPT bắt đầu tham gia vào ngành công nghiệp bán dẫn đang phát triển, ước tính trị giá 6,16 tỷ USD vào năm 2024.

Tuy nhiên, ngành công nghiệp chip của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của ngành này trong chuỗi cung ứng chủ yếu giới hạn ở khâu lắp ráp, thử nghiệm và đóng gói. Việt Nam vẫn chưa sản xuất được chất bán dẫn nào trong nước. Ngay cả những con chip "Made in Vietnam" đầu tiên của FPT Semiconductor cũng được sản xuất tại Hàn Quốc.

Mục tiêu của Việt Nam là thúc đẩy tự lực và nuôi dưỡng những doanh nghiệp tiên phong trong nước. Tháng 8/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo Viettel triển khai “nghiêm túc, hiệu quả” kế hoạch nghiên cứu phát triển, thiết kế, sản xuất chip trong nước.

Tuy nhiên, do tính chất thâm dụng vốn của sản xuất chip, một nhà máy có thể tiêu tốn hàng tỷ đô la, cách tiếp cận thực tế sẽ là khuyến khích các công ty quốc tế thành lập nhà máy tại Việt Nam đồng thời nâng cao dần vai trò của các doanh nghiệp cung cấp trong nước.

Một số lĩnh vực chính cần chính phủ cải thiện. Mặc dù có nguồn nhân tài công nghệ dồi dào, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển phần mềm và dịch vụ công nghệ, hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam trong các lĩnh vực liên quan đến công nghệ vẫn còn chậm trong việc tạo ra nguồn nhân lực cần thiết.

Chẳng hạn, trung tâm đào tạo kỹ sư bán dẫn lớn nhất của Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, chỉ đào tạo được khoảng 500 sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành mỗi năm. Điều này còn lâu mới đáp ứng được nhu cầu. Theo Giám đốc Khu công nghệ cao Sài Gòn Nguyễn Anh Thi, ngành này có thể cần tới hàng chục nghìn công nhân lành nghề mỗi năm.

Khi Mỹ và Trung Quốc tiếp tục tham gia vào cuộc cạnh tranh địa chính trị và với nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc nhiều hơn vào chất bán dẫn hơn bao giờ hết, việc Việt Nam định vị chiến lược và tiếp tục tập trung vào lĩnh vực này có thể thu được những lợi ích đáng kể.

Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ một người hưởng lợi hoàn cảnh thành một người chơi tự duy trì trong thị trường chất bán dẫn toàn cầu đòi hỏi những thay đổi chính sách quan trọng. Bằng cách tăng cường hệ thống giáo dục và đào tạo, thúc đẩy đổi mới trong nước và xây dựng chiến lược quốc gia rõ ràng, Việt Nam có thể biến “cơn sốt chip” thoáng qua thành một cuộc chạy marathon được dàn dựng bài bản, đảm bảo vị trí đi đầu trong cuộc cách mạng bán dẫn.

Nguồn: VnBusiness