Mức giá “đỉnh” nhất mà sản phẩm chè Việt Nam từng đạt được là 1,52 USD/kg vào năm 1998.

Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản lượng chè, nhưng thương hiệu chè Việt vẫn chưa được nhiều người tiêu dùng trên thế giới biết đến. Điều đó khiến nhiều người đặt câu hỏi v? sao?

Giá chè Việt Nam liên tục “xuống hạng”

Mức giá “đỉnh” nhất mà sản phẩm chè Việt Nam từng đạt được là 1,52 USD/kg vào năm 1998. Tại thời điểm đó, giá trung b?nh tại 3 sàn đấu giá Calcutta, Colombo, Monbasa là 2,01 USD/kg. Từ đó đến nay, giá chè nước ta liên tục “xuống hạng”.

Riêng chỉ tiêu kim ngạch năm 2009 là 200 triệu USD th? ngành chè chỉ đạt 179 triệu USD. Về giá chè xuất khẩu, mức phấn đấu là 1,8 USD/kg nhưng cũng chỉ đạt 1,4 USD/kg. Năm 2009, khi giá chè trung b?nh tại các sàn Calcutta, Colombo, Monbasa lên đến 2,43 USD/kg th? giá chè Việt Nam lại rơi xuống mức 1,23 USD/kg. So sánh giá xuất khẩu năm 1998 và năm 2009 đ? giảm gần 20%, trong khi mức giá trung b?nh của thế giới đ? tăng khoảng 18%.

Theo ông Đoàn Anh Tuân - Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam (Vitas), nguyên nhân của t?nh trạng trên là sự cạnh tranh không lành mạnh giữa chính các doanh nghiệp trong nước. Nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận trước mắt đ? sản xuất và xuất khẩu sản phẩm chè kém chất lượng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng uy tín ngành chè Việt Nam. Đây cũng là l? do khiến Việt Nam, hiện là quốc gia đứng thứ 5 thế giới về sản lượng chè xuất khẩu, nhưng "tên tuổi" chè Việt vẫn chưa được người tiêu dùng trên thế giới biết đến.

Thêm vào đó, năng lực chế biến của toàn ngành chè đang gấp hai lần so với khả năng cung cấp nguyên liệu. Vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm lại chưa được quan tâm đúng mức.

Về phía doanh nghiệp, vẫn c?n tâm l? ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước. "Phần lớn vẫn chỉ muốn “hớt váng sữa” và né tránh đầu tư vào việc phát triển vùng nguyên liệu, cũng như trách nhiệm với cộng đồng và người tiêu dùng", ông Đoàn Anh Tuân cho biết.

Bà Nguyễn Thu Hằng - đại diện công ty Tea Estate Agencies, một khách hàng lớn của ngành chè Việt Nam, cho rằng: Sở dĩ giá chè xuất khẩu của Việt Nam thấp là do các loại chè chưa bắt kịp nhu cầu luôn thay đổi của thế giới. Công ty bà sẵn sàng mua chè của Việt Nam với giá tốt hơn, nếu các doanh nghiệp kiểm soát được việc sử dụng thuốc trừ sâu và lượng tồn dư trên sản phẩm. Sản phẩm được giao phải có chất lượng tốt, đúng như mẫu chào hàng.

“Việc giao hàng không giống với cam kết trong hợp đồng không chỉ khó khăn cho công ty trong khâu tiếp thị, bán hàng cho người đóng gói, mà c?n làm giảm uy tín của chè có xuất xứ từ Việt Nam”, bà Hằng cho biết thêm.

Bất cập trong chiến lược phát triển

Báo cáo tổng quan phát triển ngành chè 10 năm (1999 - 2009) cho thấy, các chỉ tiêu về sản lượng chè khô, xuất khẩu, năng suất b?nh quân, diện tích vùng nguyên liệu… đều đạt và vượt kế hoạch. Nhưng thực tế, từ năm 1999 đến nay, giá chè xuất khẩu trung b?nh của thế giới đ? tăng 18%, trong khi giá chè xuất khẩu của Việt Nam lại giảm tới 20%.

Ông Đoàn Anh Tuân cho biết, chúng ta đang chạy theo số lượng nên khiến cho chất lượng đi xuống, giá bán thấp. Đây là sự l?ng phí rất lớn tài nguyên của đất nước. Nếu chúng ta sản xuất ra nhiều th? phải thu được nhiều tiền hơn về cho đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta xuất khẩu nhiều nhưng giá trị thu về th? không đáng kể. Điều này làm l?ng phí một khối lượng rất lớn than, điện, nhân công... của bà con nông dân. Thời gian vừa qua, chúng ta hơi nặng về h?nh thức như quảng bá logo, nhưng bản chất vấn đề thương hiệu không phải là logo mà nó là chất lượng, các dịch vụ đi kèm.

Cần có chiến lược phát triển khả thi gắn với thực tế

Ông Hoàng Thanh Tân - Tổng giám đốc Công ty cổ phần chè Tân Trào, cho rằng nếu muốn bán chè được giá cao th? phải đi theo quy tr?nh, bắt đầu từ chế biến chè sạch, sản xuất an toàn, sau đó mới tiến tới bước công nghệ. Hiện nay, khâu yếu nhất của chúng ta là khoanh vùng nguyên liệu vẫn c?n lẻ tẻ, chưa kiểm soát được nhiều, rất ít doanh nghiệp có vùng chè tự kiểm soát.

Về phần m?nh, ông Nguyễn Duy Hùng - Chủ tịch Hội đồng quản tri, kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần chè Phú Thọ, lại cho rằng các doanh nghiệp chế biến hiện nay thường thiếu đến 50% nguyên liệu; những địa phương như Phú Thọ, Yên Bái công suất chế biến thường lớn gấp 3 lần nguyên liệu tại chỗ. Đây là phần hết sức khó khăn của doanh nghiệp, nhất là trong công tác thu mua, chế biến và quản l? chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong công tác quản lý sản phẩm th? nguyên liệu chè búp vẫn thường phải tranh mua, tranh bán với các doanh nghiệp khác.

Ông Đoàn Anh Tuân khẳng định, chỉ có đổi mới th? ngành chè Việt Nam mới có thể phát triển. Theo đó, Vitas đề nghị cơ quan chức năng của Nhà nước cần có những quyết sách thật “mạnh tay” đối với các nhà sản xuất và xuất khẩu chè không tuân thủ quy định. Bên cạnh đó, nên chú trọng sản xuất các loại chè đặc sản, chất lượng cao phù hợp với quy mô từng vùng nguyên liệu, từng địa phương, thay v? sản xuất quá nhiều sản phẩm chè chất lượng thấp như hiện nay.

Nguồn: CafeF