Giải quyết tranh chấp số DS202

24/12/2009    1693

Hoa Kỳ – Các biện pháp tự vệ chính thức đối với mặt hàng ống thép cacbon (Circular Welded Carbon Quality Line Pipe) nhập khẩu từ Hàn Quốc.


Tiêu đề

Hoa Kỳ - ống thép

Nguyên đơn:

Hàn Quốc

Bị đơn:

Hoa Kỳ

Bên thứ ba:

Austraylia, Canada, Cộng đồng Châu Âu (EC), Nhật Bản, Mexico

Các hiệp định có liên quan (được nêu ra trong yêu cầu tham vấn):

Hiệp định tự vệ: Điều 3, 4, 5, 7.1, 8, 2, 11, 12; GATT 1994: Điều I, XIII, XIX

Yêu cầu tham vấn ngày:

13 tháng 06 năm 2000

Báo cáo của Ban Hội thẩm ban hành:

29 tháng 10 năm 2001

Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm ban hành:

15 tháng 02 năm 2002

Báo cáo của trọng tài về điều khoản 21.3(c) ban hành:

26 tháng 07 năm 2002

Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện:

Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện tới ngày 24 tháng 02 năm 2010

Thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm

Do Hàn Quốc khởi kiện

Ngày 13/06/2000, Hàn Quốc yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ về việc nước này áp đặt biện pháp tự vệ chính thức đối với mặt hàng ống thép cacbon nhập khẩu từ Hàn Quốc. Hàn Quốc nhấn mạnh ngày 18 tháng 02 năm 2000, Hoa Kỳ tuyên bố áp đặt biện pháp tự vệ chính thức lên mặt hàng thép ống cac bon (mã 7306.10.10 và 7306.10.50 trong Biểu hài hòa thuế quan của Hoa Kỳ). Trong tuyên bố này, Hoa Kỳ thông báo ngày hiệu lực dự kiến của biện pháp tự vệ này là 01/03/2000 và áp dụng trong 3 năm, 1 ngày. Hàn Quốc cho rằng các thủ tục và phán quyết của Hoa Kỳ dẫn tới việc áp đặt biện pháp tự vệ này cũng như chính bản thân biện pháp này vi phạm các điều khoản khác nhau của Hiệp định về các biện pháp tự vệ và GATT 1994. Cụ thể, Hàn Quốc cho rằng biện pháp này vi phạm các nghĩa vụ của Hoa Kỳ theo điều khoản 2, 3, 4, 5, 11 và 12 của Hiệp định về các biện pháp tự vệ và điều khoản I, XIII và XIX của GATT 1994.

Theo yêu cầu của Hàn Quốc, Cơ quan Giải quyết tranh chấp (DSB) đã thành lập Ban Hội thẩm tại cuộc họp ngày 23/10/2000. Austraylia, Canada, EC, Nhật Bản, Mexico tham gia vụ kiện với tư cách là bên thứ 3. Ngày 12/01/2001, Hàn Quốc yêu cầu chủ tịch DSB xác định cơ cấu của Ban. Ngày 22/01/2001, cơ cấu ban được xác định.

Ngày 29/10/2001, Ban Hội thẩm ban hành báo cáo tới các thành viên. Ban Hội thẩm kết luận rằng việc Hoa Kỳ áp dụng biện pháp tự vệ với mặt hàng thép ống các bon là vi phạm các điều khoản của GATT 1994 và/hoặc Hiệp định về các biện pháp tự vệ. Cụ thể:

  • Biện pháp tự vệ áp dụng với thép ống không tuân thủ nguyên tắc chung nêu trong Điều XIII:2 do Hoa Kỳ áp dụng biện pháp này mà không tính tới các mô hình thương mại truyền thống
  • Biện pháp này không phù hợp Điều XIII2:(a) do nó không xác định cụ thể lượng hàng nhập khẩu được phép hưởng thuế quan thấp hơn
  • Hoa Kỳ đã vi phạm Điều 3.1 và 4.2(c) khi không nêu ra trong báo cáo các kết luận rằng hoặc sự gia tăng hàng nhập khẩu gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đang đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng;
  • Hoa Kỳ đã vi phạm Điều 4.2(b) do không chứng minh được có mối quan hệ nhân quả giữa sư gia tăng hàng nhập khẩu và thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng;
  • Hoa Kỳ đã không tuân thủ các nghĩa vụ của nước này theo Điều 9.1 do áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng nhập khẩu của các nước đang phát triển sở hữu các mặt hàng không vượt qua ngưỡng riêng lẻ và tổng thể nêu ra trong điều khoản đó;
  • Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo Điều XIX khi không chứng minh được có sự tồn tại của “ hiện tượng không lường trước được” trước khi áp dụng biện pháp tự vệ đối với thép ống
  • Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ của mình theo Điều 12.3 khi không tạo cơ hội đầy đủ cho việc tham vấn tới các thành viên là các nhà xuất khẩu thép ống có quan tâm đáng kể tới vấn đề này.
  • Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo điều khoản 8.1 khi cố gắng duy trì mức nhượng bộ và các nghĩa vụ khác tương đối lớn .

Các khiếu nại khác của Hàn Quốc bị Ban Hội thẩm bác bỏ. Ban Hội thẩm cũng từ chối yêu của của Hàn Quốc buộc Hoa Kỳ xóa bỏ các biện pháp tự vệ ngay lập tức và chấm dứt cuộc điều tra về biện pháp tự về đối với thép ống các bon của Ủy ban Thương mại Quốc tế (ITC).

Ngày 06/11/2001, Hoa Kỳ thông báo ý định kháng cáo về các vấn đề  pháp lý và giải thích pháp luật trong báo cáo của Ban Hội thẩm. Tuy nhiên, ngày 13/11/2001, Hoa Kỳ rút lại thông báo trên. Sau đó, ngày 19/11/2001, Hoa Kỳ thông báo quyết định rà soát lại báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm. Ngày 18/01/2002, Cơ quan Phúc thẩm thông báo với DSB rằng sẽ tạm hoãn công bố báo cáo. Theo đó, Cơ quan Phúc thẩm thông báo báo cáo sẽ được ban hành tới các thành viên chậm nhất là ngày 15/02/2002. Ngày 15/02/2002, Cơ quan Phúc thẩm ban hành báo cáo tới các thành viên. Báo cáo kết luận:

  • Tán thành,với nhiều lý do khác nhau, kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn  8.1(7) của báo cáo, rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo Điều 12.3 của Hiệp định về các biện pháp tự vệ  khi không tạo cơ hội đầy đủ cho tham vấn với Hàn Quốc, một thành viên có mối quan tâm đáng kể tới xuất khẩu thép ống
  • Tán thành kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn 8.1(8) của báo cáo rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ theo Điều 8.1 của Hiệp định về các biện pháp tự vệ khi cố gắng duy trì nhượng bộ và các nghĩa vụ khác tương đối lớn .
  • Tán thành kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn 8.1(5) của báo cáo, rằng Hoa Kỳ đã không tuân thủ các nghĩa vụ của nước này theo Điều 9.1 của Hiệp định về các biện pháp tự vệ, rằng các biện pháp tự vệ này không được áp dụng đối với sản phẩm xuất xứ từ thành viên là các nước đang phát triển miễn là hàng nhập khẩu không vượt quá ngưỡng riêng lẻ và tổng thể nêu ra trong điều khoản này.
  • Phản đối kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn 8.1(3) của báo cáo rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo Điều 3.1 và 4.2(c) của Hiệp định về các biện pháp tự vệ khi không nêu ra trong báo cáo các kết luận rằng hoặc sự tăng lên hàng nhập khẩu gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đang de dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng;
  • Phản đối kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn 8.2(9) của báo cáo rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo Điều 2và 4 của Hiệp định về các biện pháp tự vệ khi không áp dụng biện pháp tự vệ đối với thép ống nhập khẩu từ Canada và Mexico;
  • Sửa đổi kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn 8.2(1) của báo cáo, rằng Hoa Kỳ không vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo điều khoản I, XIII:1 và XIX của GATT 1994 khi không áp dụng biện pháp tự vệ đối với thép ống nhập khẩu từ Canada và Mexico, Hoa Kỳ có đưa vấn đề này ra thảo luận nhưng không áp dụng biện pháp pháp lý nào.
  • Tán thành kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn 8.1(4) của báo cáo, rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo điều khoản 4.2(b) của Hiệp định về các biện pháp tự vệ do không chứng minh được có mối quan hệ nhân quả giữa sự gia tăng hàng nhập khẩu và thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa có thiệt hại nghiêm trọng;
  • Tán thành kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn 7.81 của báo cáo, rằng Hoa Kỳ không có nghĩa vụ theo Điều 5.1, câu đầu tiên, của Hiệp định về các biện pháp tự vệ tại thời điểm áp đặt các biện pháp tự vệ, rằng biện pháp tự vệ đối với thép ống là cần thiết để ngăn chặn thiệt hại nghiêm trọng và giúp điều chỉnh thị trường;
  • Phản đối kết luận của Ban Hội thẩm trong đoạn 8.2(2) của báo cáo rằng ban đầu Hàn Quốc đã không kiện Hoa Kỳ vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo Điều 5.1, câu đầu tiên của Hiệp định về các biện pháp tự vệ khi áp đặt biện pháp tự vệ vượt quá mức độ cần thiết ngăn chặn thiệt hại nghiêm trọng và điều chỉnh thị trường, và kết luận rằng Hoa Kỳ đã sử dụng biện pháp này vượt quá mực độ cần thiết chặn thiệt hại nghiêm trọng và điều chỉnh thị trường.

Ngày 08/03/2002, DSB thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và báo cáo của Ban Hội thẩm do Cơ quan Phúc thẩm sửa đổi.

Tình hình thực thi các báo cáo đã thông qua

Tại cuộc họp ngày 05/04/2002 của DSB, Hoa Kỳ bày tỏ ý định thực thi các khuyến nghị, nguyên tắc và tuyên bố sẽ tham vấn với Hàn Quốc để xác định thời gian hợp lý cho việc thực thi. Tại cuộc hộp ngày 17/04/2002 của DSB, Hàn Quốc bày tỏ mối quan ngại về việc thiếu đề nghị từ phía Hoa Kỳ về khoảng thời gian hợp lý để tuân thủ các khuyến nghị và nguyên tắc. Hoa Kỳ tuyên bố rằng nước này sẽ đưa ra thời gian càng sớm càng tốt. Ngày 29/04/2002, Hàn Quốc yêu cầu trọng tài xác định khoảng thời gian hợp lý theo Điều 21.3(c) của Quy tắc Giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU). Ngày 13/05/2002, Hoa Kỳ yêu cầu chủ tich DSB chỉ định trọng tài. Ngày 23/05/2002, chủ tịch đã xác định được trọng tài. Dự kiến trọng tài sẽ đưa ra phán quyết ngày 12/07/2002. Bằng một bức thư chung gửi trọng tài ngày 12/07/2002, hai bên yêu cầu trọng tài hoãn công bố phán quyết tới ngày 22/07/2002 để hai bên tiến hành đàm phán song phương. Trong tài đồng ý với yêu cầu này. Ngày 19 và 22/07/2002, Hoa Kỳ và Hàn Quốc trên cơ sở Điều 21.3(c) của DSU lại tiếp tục yêu cầu trọng tài hoãn công bố phán quyết sang này 24/07/2002 và 26/07/2002. Trọng tài đồng ý yêu cầu này. Bằng văn bản gửi ngày 24/07/2002, các bên thông báo với trọng tài rằng họ đã đạt được thỏa thuận về khoảng thời gian hợp lý. Theo đó, trọng tài không đưa ra phán quyết mà thay vào đó ban hành báo cáo đưa các thủ tục trọng tài đã tiến hành.

Tại cuộc họp ngày 18/03/2003, Hoa Kỳ thông báo xóa bỏ biện pháp tự vệ đối với thép ống nhập khẩu từ Hàn Quốc kể từ ngày 01/03/2003.