USTR công bố các mục tiêu của Hoa Kỳ trong TPP

23/06/2014    124

Mới đây, Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) đã công bố các mục tiêu của Hoa Kỳ trong đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương. Nội dung cụ thể như sau:

 

VĂN PHÒNG CƠ QUAN ĐẠI DIỆN THƯƠNG MẠI HOA KỲ

VĂN PHÒNG HÀNH PHÁP CỦA TỔNG THỐNG

THỦ ĐÔ OA – SINH – TƠN

------------

Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương

Tóm lược các mục tiêu của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ đang tham gia đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với 11 quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương khác (Ốt – xtrây – li – a, Bru – nây, Ca – na – đa, Chi – lê, Nhật Bản, Ma – lai – xi – a, Mê – xi – cô, Niu – di – lân, Pê – ru, Xing – ga – po và Việt Nam). Đây là một hiệp định thương mại sẽ mở ra thị trường, đặt ra các quy tắc thương mại tiêu chuẩn cao và xử lý các vấn đề kinh tế toàn cầu của thế kỷ 21. Hiệp định TPP sẽ góp phần tạo công ăn việc làm và tăng trưởng ở Hoa Kỳ cũng như ở trên toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Chính quyền của Tổng thống Obama đang theo đuổi Hiệp định TPP nhằm đem lại cơ hội cho các nhà sản xuất, những người công nhân, nhà cung cấp dịch vụ, nông dân, chủ trang trại của Hoa Kỳ, giúp họ tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập của minh. Chúng tôi đang nỗ lực làm việc nhằm đảm bảo rằng Hiệp định TPP sẽ là một thoả thuận toàn diện, mở ra thị trường mới, có ý nghĩa cho hàng hoá và dịch vụ; đặt ra các tiêu chuẩn lao động vavf cam kết về môi trường cao có tính khả thi; đặt ra các quy định mới nhằm đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước (SOE) và doanh nghiệp tư nhân; đưa ra những cam kết nhằm cải thiện tính minh bạch và nhất quán của môi trường quản lý nhằm tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, tạo ra khung pháp lý vững chắc về quyền sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy đổi mới đồng thời đảm bảo việc tiếp cận thuốc và mạng internet; đặt ra các nghĩa vụ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số, bao gồm cả các quy tắc mới nhằm đảm bảo việc tự do lưu chuyển dữ liệu.

Tài liệu này mô tả mục tiêu mà Chính quyền của Tổng thống Obama đặt ra đối với Hiệp định TPP và trình bày những nội dung chính của mỗi chương từ góc độ nhìn nhận của Hoa Kỳ. Đàm phán vẫn đang tiếp tục và nhiều nội dung được nêu chi tiết dưới đây vẫn chưa được thống nhất. Đây là mục tiêu của chúng tôi và vẫn còn nhiều việc phải làm để đạt được những mục tiêu này. Tài liệu này thể hiện cách mà Chính quyền của Tổng thống Obama nhìn nhận về việc lấy thương mại làm công cụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và mở ra cơ hội cho người dân Hoa Kỳ trong bối cảnh một hiệp định sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các nước TPP. Cách nhìn nhận này đang được Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ thúc đẩy trong đàm phán.

Chúng tôi cam kết công khai thông tin về những gì chúng tôi đang làm để đạt được thông qua đàm phán thương mại và sẽ tiếp tục chia sẻ thông tin này qua báo chí, truyền thông và tại trang www.ustr.gov trong quá trình đàm phán.

THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA      

Mỗi ngày, Hoa Kỳ xuất khẩu hơn 1,9 tỷ đô – la hàng hoá sang các quốc gia thành viên TPP. Trong môi trường cạnh tranh mạnh mẽ toàn cầu hiện nay, việc tăng nhẹ chi phí sản phẩm do thuế hoặc các rào cản phi thuế cũng có thể tạo ra sự khác biệt giữa thành công và thất bại trong kinh doanh. Đó là lý do tại sao Hoa Kỳ tham gia đàm phán Hiệp định TPP nhằm tiếp cận toàn diện một khu vực phi thuế quan rộng lớn đối với hàng công nghiệp, thực phẩm, nông sản và dệt may và điều này cho phép các nhà xuất khẩu phát triển và tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị của các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Năm 2013, Hoa Kỳ xuất khẩu trên 622,5 tỉ đô – la sản phẩm công nghiệp sang các quốc gia thành viên TPP. Với việc xoá bỏ thuế quan của các nước TPP đối với các sản phẩm công nghiệp, kể cả các sản phẩm tiên tiến và công nghệ cao, chẳng hạn như máy móc công nghiệp và điện tử, dụng cụ khoa học và chính xác, dược phẩm và nhựa, các sản phẩm của Hoa Kỳ sẽ cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng hơn so với hàng hóa đến từ các nước là đối tác FTA của các quốc gia thành viên như Trung Quốc, Ấn Độ và Liên minh Châu Âu. Chẳng hạn, linh kiện ô tô Hoa Kỳ hiện tại chịu thuế suất 27% khi nhập khẩu vào Việt Nam. Trong khi đó, linh kiện nhập khẩu từ các nước có FTA với Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan và In -  đô – nê – xi – a được miễn thuế. Bằng việc xoá bỏ thuế quan áp dụng đối với các công ty sản xuất linh kiện của Hoa Kỳ, Hiệp định TPP sẽ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các công ty này tại Việt Nam.

20% thu nhập của ngành nông nghiệp Hoa Kỳ đến từ sức khỏe nông sản và điều  này đã hỗ trợ cho cộng đồng dân cư ở đây. Trên thực tế, xuất khẩu thực phẩm và nông sản Hoa Kỳ ra thế giới trong năm 2013 đạt con số 148 tỉ đô – la, một mức cao và chưa từng có. Trong số này, Hoa Kỳ đã xuất khẩu hơn 58 tỉ đô – la sang các nước TPP và con số này sẽ cao hơn nữa khi xoá bỏ thuế quan trong TPP. Một ví dụ minh hoạ: Sản phẩm gia cầm của Hoa Kỳ hiện nay đang chịu mức thuế 40% khi nhập khẩu vào Ma – lai – xi – a khi hiệp định TPP xoá bỏ thuế quan đối với sản phẩm này.

Các mục tiêu cụ thể của chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Xoá bỏ thuế quan và giúp cho các sản phẩm của Hoa Kỳ có thể dễ dàng xuất khẩu sang các nước TPP, và
  • Các điều khoản loại bỏ hàng rào phi thuế quan tồn tại từ lâu nay, bao gồm yêu cầu về giấy phép nhập khẩu và những hạn chế khác.

DỆT MAY

Các nhà sản xuất hàng dệt may Hoa Kỳ đã bán hơn 10 tỷ USD giá trị sản phẩm sang các nước TPP trong năm 2013, tăng 5,4% so với năm trước. Nhiều mặt hàng sợi, vải và may mặc của Hoa Kỳ hiên đang phải đối mặt với mức thuế cao tới 20% tại một số nước TPP. Mục  tiêu của Hoa Kỳ trong các cuộc đàm phán TPP là loại bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối với hàng xuất khẩu dệt may để nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất của chúng ta trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Các mục tiêu cụ thể của chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Xoá bỏ thuế quan đối với hàng dệt may xuất khẩu sang các nước TPP;
  • Áp dụng quy tắc xuất xứ “từ sợi”, đòi hỏi các sản phẩm dệt may phải được sản xuất từ các loại sợi và vải của Hoa Kỳ hoặc của các quốc gia TPP khác để đảm bảo lợi ích của hiệp định TPP, và đảm bảo rằng hàng dệt may không đủ tiêu chuẩn từ các nước ngoài TPP không được hưởng những ưu đãi dành riêng cho các nước thành viên TPP;
  • Có danh sách “nguồn cung thiếu hụt” được xây dựng một cách cẩn thận cho phép mua các loại vải, sợi không có sẵn tại Hoa Kỳ hoặc các nước TPP khác từ các nước ngoài TPP và được sử dụng trong sản xuất hàng may mặc trong khu vực TPP mà vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan;
  • Có những quy định chặt chẽ về việc thực thi và các cam kết hợp tác hải quan để giúp xác minh các chứng nhận xuất xứ hoặc ưu đãi thuế quan, và từ chối cho hưởng ưu đãi hoặc từ chối nhập khẩu hàng hóa bị nghi ngờ nếu không thể xác minh được những chứng nhận này;

Có một cơ chế tự vệ cụ thể đối với hàng dệt may cho phép Hoa Kỳ và các nước TPP khác tái áp thuế đối với những hàng hóa nhất định nếu việc nhập khẩu tăng đột biến gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước.

DỊCH VỤ

Các ngành dịch vụ đóng góp 80% công ăn việc làm ở Hoa Kỳ. Con số này ở các nước TPP khác cũng rất đáng kể và đang dần tăng lên. Việc đảm bảo tiếp cận tự do và bình đẳng hơn vào thị trường dịch vụ nước ngoài sẽ giúp các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ, từ quy mô nhỏ đến lớn, thâm nhập và hoạt động hiệu quả hơn trong thị trường các nước TPP và qua đó, tạo thêm công ăn việc làm ở trong nước.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi muốn đạt được trong TPP là:

  • Quyền tiếp cận tự do hơn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vưc dịch vụ để họ được đối xử tốt hơn hoặc bình đẳng với các nhà cung cấp dịch vụ đến từ các đối tác FTA khác của các nước TPP, có được một sân chơi bình đẳng hơn ở thị trường các nước TPP;
  • Các điều khoản cho phép các nhà cung cấp dịch vụ được cung cấp dịch vụ mà không cần thành lập văn phòng ở mỗi nước TPP;
  • Các nghĩa vụ mới hoặc bổ sung trong từng ngành cụ thể có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại (ví dụ: các quy định bổ sung đối với dịch vụ chuyển phát nhanh sẽ thúc đẩy các chuỗi cung ứng khu vực, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ thường phụ thuộc rất lớn vào dịch vụ chuyển phát nhanh để hội nhập vào các chuỗi cung ứng và mạng lưới phân phối); và
  • Các cam kết nhằm tự do hoá dịch vụ tài chính và thị trường bảo hiểm nước ngoài trong khi vẫn giữa được những linh hoạt đáng kể cho các chính phủ trong quản lý, kể cả trong lĩnh vực tài chính, và áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo sự ổn định và toàn vẹn của hệ thống tài chính.

ĐẦU TƯ

Với việc thương mại sẽ theo sau các hoạt động đầu tư, chúng tôi đang nỗ lực để đảm bảo rằng các nhà đầu tư Hoa Kỳ ở nước ngoài có được những cơ hội tương tự như ở những thị trường khác mà chúng ta đã dành cho các nhà đầu tư nước ngoài đang kinh doanh ở Hoa Kỳ. Đó là lý do tại sao chúng ta đưa vào Hiệp định TPP những nghĩa vụ đầu tư mà lịch sử đã chứng minh là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm, cũng như những quy định mới nhằm giải quyết những vấn đề đầu tư mới phát sinh.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Tự do hoá thị trường dầu tư các nước TPP, áp dụng các quy định không phân biệt đối xử và giảm hoặc xoá bỏ các rào cản đối với việc thành lập và thực hiện các khoản đầu tư ở các nước TPP, bao gồm cả việc cấm không áp dụng các biện pháp trưng thu bất hợp pháp và những yêu cầu thực hiện đã được quy định;
  • Những quy định loại bỏ những biện pháp bắt buộc nhà đầu tư TPP phải ưu tiên sử dụng công nghệ nội địa của một nước khác đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp nhà nước (SOE), các công ty độc quyền quốc gia hoặc những đối thủ cạnh tranh khác ở nước đó; và
  • Các thủ tục xét xử trọng tài quy định các quy tắc luật lệ cơ bản nhằm bảo hộ các nhà đầu tư Hoa Kỳ đang hoạt động ở nước ngoài tương tự những quy định Hoa Kỳ đưa ra nhằm bảo  vệ nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Hoa Kỳ. Những thủ tục này nhằm đảm bảo rằng tất cả các nước TPP có thể có những biện pháp điều chỉnh hợp lý trong việc bảo vệ lợi ích công cộng, bao gồm bảo vệ môi trường, an toàn và sức khỏe. Điều này bao gồm một loạt các biện pháp tự vệ được xây dựng nhằm nâng cao tiêu chuẩn cơ chế giải quyết tranh chấp, chẳng hạn như không khuyến khích và loại bỏ các vụ kiện về các vấn đề nhỏ, cho phép chính phủ tham gia trực tiếp vào kết quả của hội động trọng tài trong một số lĩnh vực nhất định, quy định các thủ tục xét xử công khai và minh bạch hơn và cho phép sự tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các bên thứ ba khác.

LAO ĐỘNG

Việc đảm bảo tôn trọng các quyền của người lao động là một giá trị cốt lõi. Đó là lý do mà trong đàm phán TPP, Hoa Kỳ đang xây dựng dựa trên các quy định lao động có tính ràng buộc cao được lấy từ các hiệp địnhh thương mại tự do gần đây nhất của minh thông qua việc xem xét đưa vào các quy định thực thi để bảo vệ các quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể; không khuyến khích hàng hóa được sản xuất bởi lao động cưỡng bức, bao gồm lao động trẻ em cưỡng bức và thiết lập các cơ chế giám sát và xử lý các quan ngại liên quan đến lao động.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Yêu cầu tuân thủ đối với các quyền lao động cơ bản được công nhận bởi Tổ chức lao động quốc tế cũng như các điều kiện lao động có thể chấp nhận được. Yêu cầu này bị ràng buộc với cơ chế giải quyết tranh chấp như các nghĩa vụ khác trong Hiệp định TPP;
  • Quy định sẽ đảm bảo rằng các nước TPP sẽ không thực thi hoặc pháp luật lao động gây ảnh hưởng tới thương mại  hoặc đầu tư, bao gồm trong các khu vực thương mại tự do và các nước TPP sẽ đưa ra các sáng kiến không khuyến khích hàng hóa do lao động cưỡng bức sản xuất;
  • Xây dựng một cơ chế tham vấn nhằm đưa ra trình tự cụ thể giải quyết các quan ngại lao động khi các quan ngại này phát sinh; và
  • Thiết lập các thủ tục để công chúng có thể nêu các quan ngại trực tiếp tới chính phủ các nước TPP nếu họ tin rằng một nước TPP không tuân thủ các cam kết về lao động và các yêu cầu buộc các chính phủ phải xem xét và trả lời các quan ngại này.

MÔI TRƯỜNG

Bảo vệ môi trường là vấn đề cốt lõi. Thúc đẩy bảo vệ môi trường trên toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là một ưu tiên quan trọng của Hoa Kỳ trong TPP. Bên cạnh các nghĩa vụ môi trường quan trọng, Hoa Kỳ đang yêu cầu các nước TPP đưa ra các đề xuất mới để giải quyết một số thách thức môi trường cấp bách nhất của khu vực.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Các nghĩa vụ tham vọng, có khả năng thực thi, chịu sự điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp giống như các nghĩa vụ khác trong Hiệp định TPP;
  • Cam kết thực thi pháp luật môi trường trong nước một cách hiệu quả, bao gồm cả các luật thực thi các hiệp định môi trường đa phương và cam kết không miễn trừ các nghĩa vụ bảo vệ do luật môi trường quy định nhằm mục đích khuyến khích đầu tư hoặc thương mại;
  • Các quy định mới điều chỉnh buôn bán động vật hoang dã; khai thác gỗ bất hợp pháp và đánh bắt trái phép; và
  • Cung cấp một phương tiện để công chúng bày tỏ quan ngại trực tiếp với các chính phủ TPP nếu họ tin rằng một thành viên TPP không đáp ứng được các cam kết môi trường, và yêu cầu các chính phủ đó xem xét và trả lời những quan ngại này

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ  VÀ VIỄN THÔNG

Trong 05 năm trở lại đây, số lượng người dùng Internet trên toàn thế giới đã bùng nổ từ 2 tỉ lên 3 tỉ người dùng và sẽ tiếp tục tăng. Việc gia tăng sử dụng Internet đã tạo ra tiềm năng kinh tế to lớn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ. Chính quyền Obama đang đàm phán Hiệp định TPP để thông qua đó mở ra nhiều cơ hội cho ngành thương mại điện tử, duy trì tự do và mở cửa đối với Internet, khuyến khich tiếp cận cạnh tranh cho các nhà cung cấp viễn thông và thiết lập các quy tắc thương mại kỹ thuật số.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Cam kết không áp thuế hải quan đối với các sản phẩm số (ví dụ: phần mềm, âm nhạc, video, sách điện tử);
  • Không phân biệt đối xử đối với sản phẩm số được chuyển giao qua phương thức điện tử và đảm bảo các sản phẩm này không bị phân biệt đối xử theo quốc tịch hoặc lãnh thổ nơi sản phẩm được sản xuất;
  • Các yêu cầu hỗ trợ một mạng Internet toàn cầu, duy nhất bao gồm đảm bảo thông suốt dữ liệu qua biên giới, phù hợp với lợi ích chính đáng của các chính phủ trong việc bảo vệ quyền riêng tư;
  • Các quy tắc chống lại những yêu cầu về địa phương hoá bắt các doanh nghiệp phải đặt hạ tầng máy tính tại mỗi thị trường nơi họ dự định kinh doanh, thay vì cho phép họ chào bán dịch vụ từ các trung tâm mạng.
  • Các cam kết cho phép nhà cung cấp viễn thông tiếp cận mạng lưới một cách hợp lý thông qua việc kết nối và tiếp cận  các thiết bị; và
  • Các điều khoản khuyến khích sự lựa chọn công nghệ và giải pháp thay thế mang tính cạnh tranh nhằm giải quyết vấn đề chi phí cao của việc chuyển vùng điện thoại quốc tế.

CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH VÀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Mục tiêu của Hoa Kỳ về chính sách cạnh tranh và doanh nghiệp Nhà nước nằm trong các nguyên tắc mang tính lâu dài về cạnh tranh bình đẳng, bảo vệ người tiêu dùng và minh bạch hoá. Hoa Kỳ đang tìm cách đưa ra những quy tắc để cấm các hành vi kinh doanh phản cạnh tranh cũng như các hành vi gian lận thương mại gây tổn hại tới người tiêu dùng. Chúng tôi cũng đang cố gắng khởi xướng những quy tắc để bảo đảm rằng các doanh nghiệp tư nhân và người lao động có thể cạnh tranh một cách công bằng với các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là khi những doanh nghiệp nhà nước này nhận được sự hỗ trợ đáng kể của chính phủ để tham gia vào các hoạt động thương mại.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Những quy tắc cơ bản đối với sự bình đẳng về mặt thủ tục trong thi hành luật cạnh tranh
  • Những cam kết đảm bảo các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo những tính toán thương mại và cạnh tranh một cách bình đẳng mà không có sự ưu đãi quá mức nào từ chính phủ, trong khi vẫn cho phép chính phủ được hỗ trợ và cho những doanh nghiệp nhà nước cung cấp dịch vụ công ở trong nước; và
  • Những quy tắc tạo ra sự minh bạch hoá liên quan tới bản chất của việc chính phủ điều hành và hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước.

DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) là xương sống của nền kinh tế Hoa Kỳ và cũng là nhân tố đóng góp chủ yếu vào sự tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế TPP khác. 28 triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hoa Kỳ tạo ra gần 2/3 tổng số việc làm mới trong khu vực tư nhân trong những thập kỉ gần đây. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn, tạo nhiều công ăn việc làm hơn và thanh toán mức lương cao hơn các doanh nghiệp tương tự không tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Thông qua hiệp định này, chúng tôi đang nỗ lực cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ các công cụ cần thiết để cạnh tranh trên thị trường các nước TPP. Hiệp định TPP sẽ đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc xoá bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan, đơn giản hoá thủ tục hải quan, tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy thương mại điện tử và xây dựng cơ chế chính sách hiệu quả và minh bạch hơn. Bên cạnh đó, lần đầu tiên Hiệp định TPP sẽ có một chương giải quyết các vấn đề có thể gây ra những thách thức đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Các cam kết cho phép tiếp cận thông tin về việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) – một vấn đề mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho là một thách thức lớn đối với họ; và
  • Thiết lập một cơ chế rà soát định kỳ về việc Hiệp định TPP đang tác động như thế nào đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ (IPR)

Do Hoa Kỳ là một nền kinh tế sáng tạo nhất thế giới, nên việc bảo vệ thực thi IP mạnh mẽ và hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và việc làm của Hoa Kỳ . Gần 40 triệu việc làm tại Hoa Kỳ trực tiếp hoặc gián tiếp nằm trong các ngành “có tỉ trọng IP cao”. Các công việc này đem lại mức lương cao hơn cho người lao động và các ngành này thúc đẩy khoảng 60% hàng hóa xuất khẩu và một tỉ trọng dịch vụ xuất khẩu lớn của Hoa Kỳ. Trong Hiệp định TPP, chúng tôi đang đàm phán để đưa vào những quy định có tính ràng buộc cao, mới, cân bằng để bảo vệ và thúc đẩy xuất khẩu các hàng hóa và dịch vụ có hàm lượng IP cao vào khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nhằm phục vụ cho lợi ích  của các nhà sản xuất và người tiêu dùng những hàng hóa và dịch vụ đó tại các nước TPP.

Các quy định mà Hoa Kỳ đang tìm kiếm – được quy định một cách cân bằng trong pháp luật hiện hành của Hoa Kỳ - sẽ thúc đẩy một khu vực châu Á – Thái Bình Dương có công nghệ tiên tiến, sáng tạo và tự do, thúc đẩy việc phát kiến sáng tạo ra các sản phẩm và các ngành công nghiệp mới ở khắp các nước TPP, đồng thời đảm bảo các nước TPP thu được các kết quả trên cơ sở những lợi ích của việc đổi mới khoa học, công nghệ và y tế cũng như tham gia vào việc phát triển và thụ hưởng nghệ thuật và phương tiện truyền thông mới.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Bảo vệ mạnh mẽ các bằng sáng chế,nhãn hiệu,vản quyền và bí mật thương mại, bao gồm cả các biện pháp tự vệ chống lấy trộm qua mạng các bí mật thương mại;
  • Các cam kết yêu cầu các nước đạt được sự cân bằng trong hệ thống bản quyền cuả mình bằng các phương thức hạn chế hoặc ngoại lệ cho phép sử dụng các tác phẩm có bản quyền phục vụ các mục đích như phê bình,bình luận,báo cáo tin tức,giảng dạy,học bổng và nghiên cứu;
  • Các quy định IP về dược phẩm nhằm thúc đẩy sáng chế và phát triển dược phẩm mới,tạo cơ hội cạnh tranh cho các thuốc phiên bản của biệt dược gốc(thuốc generic) và đảm bảo cho mọi người có thể tiếp cận với thuốc. Các quy định này có tính đến mức độ phát triển khác nhau giữ các nước TPP, luật pháp và các cam kết quốc tế của các nước này. .các quy tắc mới nâng cao tính minh bạch hóa và quy trình phù hợp về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý;
  • Các quy tắc thực thi IP mạng mẽ và công bằng để chống hàng giả và vi phạm bản quyền,bao gồm cả những quy tắc cho phép tăng mức phạt trong trường hợp hàng giả đe dọa sức khỏe hoặc sự an toàn của con người ;
  • Các quy định "vùng cảng an toàn" của các nhà cung cấp dịch vụ Internet và các quy định cóu tính rằng buộc pháp lý cao và cân bằng về các biện pháp bảo hộ công nghệ để thúc đẩy các mô hình kinh doanh mới và kinh doanh hợp pháp trong môi trường số.

HÀNG RÀO KỸ THUẬT TRONG THƯƠNG MẠI (TBT) VÀ CÁC BIỆN PHÁP KIỂM DỊCH ĐỘNG THỰC VẬT(SPS)

Những hàng rào thương mại phi thuế quan,chẳng hạc các quy định kiểm tra trùng lặp và thiếu cơ sở khoahọc đối với hàng thực phẩm và nông sản là một trong những thách thức lớn nhất đối với các nhà xuất khẩu trong toàn khu vực châu Á-Thái Bình Dương.Một chương trình quản lý hiệu quả cần phải bảo vệ được lợi ích công cộng- ví dụ về sức khỏe,an toàn và bảo vệ môi trường - và không gây cản trở thương mại quá mức cần thiết để đạt được những mục tiêu chính sách.Do đó,trong hiệp định TPP, Hoa Kỳ đang tìm cách tăng cường các quy định để loại bỏ các hàng rào kĩ thuật trong thương mại (TBT) không có căn cứ và xây dựng dựa trên các cam kết WTO trong lĩnh vực này nhằm đảm bảo các biện pháp kiểm dịch động thực vật(SPS) được xây dựng và thực thi một cách minh bạch,có căn cứ khoa học.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Các cam kết tăng cường tính minh bạch,giảm chi phí thử nghiệm và chứng nhận không cần thiết,mở rộng hơn nữa việc xây dựng các tiêu chuẩn;
  • Các cam kết nhằm áp dụng các cách tiếp cận chung đối với các vấn đề pháp lý liên quan đến thương mại trong các lĩnh vực chính như rượu vang và rượu chưng cất,thiết bị y tế, mỹ phẩm,dược phẩm, công nghệ thông tin truyền thông và thực phẩm công thức;
  • Các quy tắc mới và có thể thực thi để đảm bảo rằng các biện pháp SPS dựa trên cơ sở khoa học được xây dựng và thực hiện một cách minh bạch,có thể dự đoán, không phân biệt đối xử, đồng thời đảm bảo cho các cơ quan của Hoa Kỳ và các cơ quan quản lý khác của các nước TPP có thể thực thi những biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ an toàn thực phẩm và sức khỏe động thực vật;và
  • Thành lập một cơ chế đối thoại và hợp tác hữu hiệu để giải quyết các vấn đề SPS và TBT

 MINH BẠCH HÓA ,CHỐNG THAM NHŨNG VÀ GẮN KẾT MÔI TRƯỜNG CHÍCH SÁCH

Thông qua Hiệp định TPP, chúng tôi mong muốn thương mại trong khu vựv TPP là một quy trình khép kín,bao gồm việc tăng cường gắn kết về môi trường chính sách giữa các nước TPP,thúc đẩy minh bạch hóa trong quá trình xây dựng chính sách và chống tham nhũng.Những cải cách nhằm tạo ra "một chính phủ tốt" này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp và người lao động Hoa Kỳ.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Những cam kết để nâng cao sự minh bạch hóa,sự tham gia và trách nhiệm trong việc xây dựng các quy định và quyết định khác của chính phủ thông qua việc công bố kịp thời các luật,quy định,quyết định hành chính mang tính áp dụng chung và những thủ tục khác ảnh hưởng tới thương mại và đầu tư,cũng như tạo cơ hội cho các bên có liên quan được tham gia đóng góp ý kiến đối với các biện pháp của chính phủ trước khi được thông qua và hoàn chỉnh;
  • Lần đầu tiên trong một hiệp định thương mại của Hoa Kỳ,một chương về gắn kết môi trường chính sách bao gồm cam kết về những thông lệ tốt trong xây dựng chính sách;và
  • Các cam kết ngăn cản tham nhũng và thiết lập những quy tắc ứng xử đê nâng cao các tiêu chuẩn đạo đức của công thức.

HẢI QUAN,THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI VÀ CÁC QUY TẮC XUẤT XỨ

Giảm quan liêu trong thương mại,bao gồm việc cắt giảm chi phí và tăng hiệu quả của hải quan sẽ giúp cho các doanh nghiệp đưa được sản phẩm ra thị trường một cách rẻ hơn,dễ dàng hơn và nhanh hơn.Trong TPP,chúng tôi đang hướng tới tạo thuận lợi cho các thương mại trong toàn khu vực TPP;hỗ trợ việc hội nhập sâu của Hoa Kỳ trong các ngành logistics,sản xuất và các ngành khác trong chuỗi cung ứng khu vực;và giảm chi phí cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ bằng cách loại bỏ các rào cản phiền hà và không rõ ràng trong hải quan.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt trong TPP là:

  • Cam kết đảm bảo việc giải phóng hàng nhanh,thủ tục giải quyết nhanh cho các lô hàng chuyển phát nhanh,xác nhận trước,và các quy định hải quan minh bạch,dễ dự đoán;
  • Các cam kết hợp tác hải quan mạnh mẽ để đảm bảo các nước TPP cùng nhau ngăn chặn buôn lậu,chuyển tải bất hợp pháp, trốn thuế và để đảm bảo tuân thủ luật lệ và quy định về thương mại; và
  • Quy tắc xuất xứ chặt và thông dụng để đảm bảo chỉ dành những lợi ích của TPP cho Hoa Kỳ và các nước TPP khác,đảm bảo TPP cũng thúc đẩy sự phát triển của các chuỗi cung ứng trong khu vực,trong đó có các công ty có trụ sở tại Hoa Kỳ

MUA SẮM CHÍNH PHỦ

Tăng cường tiếp cận thị trường mua sắm chính phủ cuả các nước TPP(Các thị trường này chiếm khoảng 5-10% cuả nền kinh tế của mỗi quốc gia) sẽ mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động Hoa Kỳ và các nước TPP khác.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt trong TPP là:

  • Các quy định công bằng,minh bạch,có thể dự đoán và không phân biệt đối xử để quản lý mua sắm chính phủ ở các nước TPP; và
  • Các cam kết tự do hóa các thị trường mua sắm chính phủ của các nước TPP,với mức độ cam kết đáng kể của các nước TPP, có tính đến những lĩnh vực nhạy cảm của các nước.

PHÁT TRIỂN VÀ XÂY DỰNG NĂNG LỰC THƯƠNG MẠI

 Hoa Kỳ coi phát triển là một cách để củng cố hơn nữa khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và đặt nền móng cho các cơ hội kinh tế trong tương lai thông qua việc thúc đẩy tiếp cận cơ hội kinh tế đôí với phụ nữ và người có thu nhập thấp,tăng cường đối tác công-tư trong các hoạt động phát triển và xây dựng các mô hình bền vững để phát triển kinh tế.Bên cạnh đó,Hoa Kỳ nhận thấy việc xây dựng năng lực thương mại rất cần thiết nhằm trợ giúp các nước đang phát triển trong Hiệp định TPP thực thi hiệp định này và đảm bảo các nước này có thể thu được lợi ích từ hiệp định này.Trong Hiệp định TPP,chúng tôi dự kiến sẽ có một chương về hợp tác và xây dựng năng lực và lần đầu tiên trong hiệp định thương mại của Hoa Kỳ,một chương được dành riêng cho nội dung phát triển.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là:

  • Thỏa thuận về các hoạt dọng phát triển hợp tác các nước TPP có thể thực hiện nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên diện rộng và phát triển bền vững,bao gồm đối tác công-tư, hợp tác khoa học và kỹ thuật và các hoạt động phát triển chung khác; và
  • Các cơ chế hợp tác và thúc đẩy các hoạt động xây dựng năng lực bởi cả các đại diện chính phủ TPP và các tổ chức chính phủ cũng như khu vực tư nhân,nhằm giúp cho người lao động và doanh nghiệp tại các nước TPP,bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp vi mô tham gia vào thương mại toàn cầu và tận dụng được lợi thế của hiệp định này.

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

Khi Hoa Kỳ đàm phán một hiệp định thương mại,chúng tôi mong muốn các đối tác thương mại tuân thủ các quy tắc và nghĩa vụ mà họ đã cam kết.Trong Hiệp định TPP,trước hết,các nước sẽ nỗ lực giải quyết vấn đề trên cơ sở hợp tác .Nếu không thể làm được,các Bên sẽ có quyền đưa vấn đề ra một tòa án độc lập để quyết định xem một Bên có vi phạm nghĩa vụ tuân thủ hay không và cuối cùng là ngừng cho hưởng ưu đãi nếu một Bên không tuân thủ.Thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của TPP,chúng tôi đang cố gắng tạo ra cho công chúng Hoa Kỳ niềm tin rằng Hoa Kỳ có các công cụ để thực thi các nghĩa vụ một cách mạnh mẽ và theo tiêu chuẩn cao mà chúng tôi đang đàm phán trong hiệp định này. Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong TPP là :

  • Thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng và minh bạch để áp dụng xuyên suốt hiệp định; và
  • Quy định các thủ tục cho phép chúng tôi giải quyết trang chấp trong các vấn đề nảy sinh từ Hiệp định TPP một cách kịp thời và hiệu quả.

ĐÀM PHÁN SONG PHƯƠNG HOA KỲ- NHẬT BẢN VỀ Ô TÔ VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ

Với việc Nhật Bản tham gia đàm phán TPP,các nước TPP chiếm gần 40% GDP toan cầu và khoảng 1/3 thương mại thế giới.Nhật Bản hiện là đối tác thương mại hàng hóa lớn thứ tư của Hoa Kỳ.Hoa Kỳ xuất khẩu 65 tỷ USD hàng hóa và xấp xỉ 48 tỷ USD dịch vụ sang Nhật bản trong năm 2013.

Tuy vây,các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ đã phải đối mặt với rất nhiều các biện pháp phi thuế trên thi trường ô tô Nhật Bản và các thị trường khác.Kết quả là trước khi Nhật Bản tham gia đàm phán TPP,Hoa Kỳ đã đạt được một loạt thỏa thuận với Nhật Bản nhằm xử lý những vấn đề gắn với việc Nhật Bản tham gia TPP.Các thỏa thuận đạt được bao gồm việc thuế của Hoa Kỳ đối với mặt hàng ô tô sẽ được giảm về 0% theo thời hạn dài nhất đạt được trong đàm phán TPP và số lượng các dòng thuế được giảm về 0% ở giai đoạn cuối sẽ ở mức tối đa có thể.

Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng nhất trí xử lý các biện pháp phi thuế trong các cưộc đàm phán song song với TPP,bắt đầu từ tháng 8/2013.

Các mục tiêu cụ thể chúng tôi mong muốn đạt được trong đàm phán với Nhật Bản là:

  • Các cam kết khả thi liên quan đến lĩnh vực ô tô nhằm xử lý rất nhiều các biện pháp phi thuế-bao gồm cả các biện pháp liên quan đến minh bạch hóa quản lý,các tiêu chuẩn,chứng nhận,sáng kiến tài chính và phân phối;
  • Việc thiết lập thủ tục giải quyết tranh chấp nhanh áp dụng trong lĩnh vực ô tô bao gồm cả cơ chế " tăng lại" thuế như một biện pháp khắc phục,cũng như tự vệ đặc biệt cho ô tô; và
  • Các thỏa thuận có ý nghĩa,xử lý được các biện pháp phi thuế áp dụng chung hoặc áp dụng cho một ngành cụ thể ,bao gồm cả lĩnh vực bảo hiểm,minh bạch hóa,đầu tư,tiêu chuẩn,mua sắm chính phủ,chính sách cạnh tranh,chuyển phát nhanh và kiểm dịch động thực vật./.