Giải quyết tranh chấp số DS264
14/05/2013 909Hoa Kỳ - Kết luận cuối cùng trong cuộc điều tra chống bán phá giá sản phẩm gỗ xẻ mềm nhập khẩu từ Canada
Nguyên đơn | Canada |
Bị đơn:
Các Các bên thứ ba: | Hoa Kỳ
Trung Quốc; EC; Ấn Độ; Nhật Bản; New Zealand; Thái Lan |
Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn) | Hiệp định ADA (Điều VI của GATT 1994): Điều 1, 4, 5, 6, 2, 9, 18, 18.1; GATT 1994: Điều VI, X:3 |
Ngày nhận được yêu cầu tham vấn | 13/09/ 2002 |
Ngày lưu hành Báo cáo Ban Hội thẩm | 13/04/ 2004 |
Ngày lưu hành Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm | 11/08/2004 |
Ngày lưu hành Báo cáo trọng tài theo Điều 21.3(c) | 13/12/2004 |
Ngày lưu hành Báo cáo Ban Hội thẩm theo Điều 21.5 | 03/04/2006 |
Ngày lưu hành Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm theo Điều 21.5 | 15/08/2006 |
Ngày nhận được thông báo đạt được thỏa thuận chung | 12/10/2006 |
Bản tóm tắt dưới đây được cập nhật đến ngày 24 tháng 02 năm 2010
Tham vấn
Ngày 13/09/2002, Canada yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ theo Điều 4.8 của DSU (tham vấn trong trường hợp khẩn cấp) liên quan đến kết luận cuối cùng khẳng định của DOC ngày 21/03/2002 (sửa đổi ngày 22/05/2002) về phá giá trong cuộc điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm gỗ xẻ nhập khẩu (Softwood Lumber) từ Canada (Cuộc điều tra số A-122-838) căn cứ theo Mục 735 của Đạo luật Thuế quan 1930. Các biện pháp bị khiếu nại bao gồm quá trình khởi xướng điều tra, tiến hành điều tra và ra phán quyết cuối cùng.
Canada cho rằng các biện pháp nói trên, cụ thể là phán quyết cuối cùng và phương pháp điều tra do DOC áp dụng theo Đạo luật Thuế quan 1930, đã vi phạm các Điều 1, 2.1, 2.2, 2.4, 2.6, 5.1, 5.2, 5.3, 5.4, 5.8, 6.1, 6.2, 6.4, 6.9 và 9.3 của Hiệp định ADA và Điều VI và X:3(a) của GATT 1994.
Giai đoạn Hội thẩm
Ngày 06/12/2002, do tham vấn không thành công, Canada đã yêu cầu DSB thành lập Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp trong vụ việc này. Tại cuộc họp ngày 19/12/2002, DSB đã trì hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm. Tuy nhiên, theo yêu cầu lần thứ hai từ phía Canada, Ban Hội thẩm đã được thành lập sau đó tại cuộc họp ngày 08/01/2003. EC, Ấn Độ và sau đó là Nhật Bản (ngày 25/02/2003) yêu cầu được tham gia vào vụ kiện với tư cách bên thứ ba. Ngày 25/02/2003, các thành viên của Ban Hội thẩm được bổ nhiệm.
Ngày 25/08/2003, Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB rằng Ban Hội thẩm không thể hoàn thành công việc trong vòng 6 tháng do tính chất phức tạp của vụ kiện và dự kiến sẽ gửi Báo cáo cuối cùng tới các bên vào tháng 12/2003. Đến ngày 02/12/2003, Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB về việc hoãn ban hành Báo cáo giải quyết tranh chấp tới tháng 02/2004.
Ngày 13/04/2004, Ban Hội thẩm hoàn thành Báo cáo và gửi tới tất cả các quốc gia thành viên WTO. Trong đó, Ban Hội thẩm kết luận DOC đã vi phạm Điều 2.4.2 Hiệp định ADA khi sử dụng phương pháp zeroing để tính toán biên độ phá giá trong phán quyết cuối cùng về phá giá (Một thành viên của Ban Hội thẩm có ý kiến trái ngược với các thành viên khác về kết luận này). Đối với các khiếu nại khác của Canada, Ban Hội thẩm đều bác bỏ.
Giai đoạn Phúc thẩm
Ngày 13/05/2004, Hoa Kỳ thông báo quyết định kháng cáo lên Cơ quan Phúc thẩm đối với một số vấn đề pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo của Ban Hội thẩm.
Ngày 08/07/2004, Chủ tịch Cơ quan Phúc thẩm thông báo với DSB rằng họ không thể hoàn thành công việc trong thời hạn 60 ngày do cần thêm thời gian để hoàn thiện và biên dịch báo cáo. Cơ quan Phúc thẩm dự kiến hoàn thành công việc trước ngày 11/08/2004.
Ngày 11/08/2004, Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được gửi tới tất cả các quốc gia thành viên, trong đó:
- đồng ý với kết luận của Ban Hội thẩm về việc Hoa Kỳ đã vi phạm Hiệp định ADA do áp dụng phương pháp Zeroing để tính toán biên độ phá giá.
- bác bỏ kết luận của Ban Hội thẩm về việc Hoa Kỳ đã không vi phạm Hiệp định ADA khi tính toán chi phí tài chính vào chi phí sản xuất đối với một công ty xuất khẩu gỗ tấm của Canada - Abitibi. Tuy nhiên, dù Cơ quan Phúc thẩm huỷ bỏ kết luận của Ban Hội thẩm, cơ quan này không có nghĩa vụ phải ra phán quyết liệu Hoa Kỳ có vi phạm các nghĩa vụ trong WTO về vấn đề này hay không; và
- ủng hộ kết luận của Ban Hội thẩm về việc Hoa Kỳ đã không vi phạm một số điều khoản của Hiệp định ADA khi tính toán doanh số thu được từ sản phẩm phụ khi bán gỗ vụn cho Tembec - một công ty Canada khác trong cuộc điều tra. Cơ quan Phúc thẩm cũng không phản đối kết luận của Ban Hội thẩm về việc Hoa Kỳ không có hành động phân biệt đối xử hay thiếu khách quan.
Tại cuộc họp ngày 31/08/2004, DSB đã thông qua Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Báo cáo đã điều chỉnh của Ban Hội thẩm.
Thực thi
Ngày 27/09/2004, tại cuộc họp của DSB, Hoa Kỳ thông báo ý định sẽ thi hành các khuyến nghị và phán quyết của DSB trên tinh thần tôn trọng các nghĩa vụ trong WTO nhưng cần một khoảng thời gian hợp lý. Hoa Kỳ cũng sẵn sàng tham vấn với Canada về vấn đề này theo đúng thủ tục quy định tại Điều 21.3(b) của DSU.
Tuy nhiên, do hai nước không thể thống nhất được về khoảng thời gian trên nên ngày 18/10/2004, Canada đã yêu cầu đưa vấn đề này ra giải quyết bằng trọng tài theo Điều 21.3(c) của DSU. Ngày 01/11/2004, các bên thống nhất việc chọn trọng tài viên. Ngày 04/11/2004, trọng tài viên được bổ nhiệm.
Ngày 06/12/2004, Canada và Hoa Kỳ thông báo với DSB rằng họ đã thống nhất được khoảng thời gian hợp lý để Hoa Kỳ thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB (theo thủ tục quy định tại Điều 21.3(b) của DSU) là 7,5 tháng, bắt đầu từ ngày 31/08/2004 và kết thúc vào ngày 15/04/2005. Và như vậy, thủ tục trọng tài theo Điều 21.3(c) của DSU sẽ được chấm dứt.
Ngày 13/12/2004, trọng tài hoàn thành báo cáo và gửi tới tất cả các nước thành viên WTO
Ngày 14/02/2005, Canada và Hoa Kỳ thông báo tới DSB về việc hai bên đã thống nhất kéo dài khoảng thời gian hợp lý nói trên đến ngày 02/05/2005.
Ngày 19/05/2005, tại cuộc họp của DSB, Hoa Kỳ thông báo đã thực thi đầy đủ các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Cụ thể, ngày 15/04/2005, Hoa Kỳ ban hành kết luận mới trong cuộc điều tra chống bán phá giá sản phẩm gỗ xẻ, trong đó tính toán lại biên độ phá giá và thuế chống bán phá giá.
Rà soát tuân thủ
Giai đoạn Hội thẩm theo Điều 21.5
Tuy nhiên, Canada cho rằng các biện pháp Hoa Kỳ đưa ra nhằm thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB lại tiếp tục vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo các Hiệp định WTO có liên quan. Do đó, ngày 19/05/2005, Canada đề nghị DSB thành lập Ban Hội thẩm tuân thủ theo Điều 21.5 của DSU và cho phép nước này đình chỉ các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác đối với Hoa Kỳ theo Điều 22.2 của DSU.
Ngày 27/05/2005, Canada và Hoa Kỳ gửi tới DSB một bản thỏa thuận giữa hai bên về thủ tục giám sát việc thực hiện các phán quyết và đình chỉ các nghĩa vụ theo Điều 21 và 22 của DSU.
Liên quan đến các thủ tục theo Điều 21.5, tại cuộc họp ngày 01/06/2005, DSB đã quyết định đưa vấn đề Canada đề nghị tới Ban Hội thẩm ban đầu để xem xét giải quyết. Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và EC yêu cầu tham gia vụ kiện với tư cách bên thứ ba.
Liên quan đến các thủ tục theo Điều 22, ngày 31/05/2005, Hoa Kỳ yêu cầu đưa vấn đề ra giải quyết bằng trọng tài theo Điều 22.6 của DSU. Tại cuộc họp ngày 01/06/2005, DSB đã đồng ý với yêu cầu này của Hoa Kỳ. Tuy nhiên sau đó hai bên đã đạt được thỏa thuận chung về vấn đề này nên thủ tục trọng tài sẽ bị tạm dừng cho đến khi hoàn thành thủ tục theo Điều 21.5.
Ngày 16/09/2005, Chủ tịch Ban Hội thẩm tuân thủ theo Điều 21.5 thông báo với DSB rằng Ban Hội thẩm không thể hoành thành công việc trong thời hạn 90 ngày do có sự thay đổi Chủ tịch Ban Hội thẩm và mâu thuẫn về lịch trình làm việc. Ban Hội thẩm dự kiến sẽ hoàn thành công việc trong tháng 02/2006.
Ngày 03/04/2006, Báo cáo của Ban Hội thẩm được gửi tới tất cả các quốc gia thành viên, trong đó đồng ý với kết luận của Ban Hội thẩm ban đầu rằng việc thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB của Hoa Kỳ liên quan đến việc áp dụng phương pháp Zeroing vẫn vi phạm Điều 2.4.2 của Hiệp định ADA về việc so sánh “giá trị thông thường bình quân gia quyền với giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch xuất khẩu có thể so sánh”. Căn cứ vào kết luận của Ban Hội thẩm, DSB đã ban hành các khuyến nghị và phán quyết trong vụ kiện này.
Nhằm thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB, DOC đã tính toán mức thuế suất mới cho các nhà xuất khẩu đang bị áp thuế dựa trên việc so sánh giá trị thông thường và giá xuất khẩu đối với từng giao dịch và vẫn sử dụng phương pháp Zeroing. Do đó, Canada đã khiếu kiện rằng việc DOC tiếp tục áp dụng Zeroing trong phương pháp so sánh giao dịch với giao dịch là vi phạm các Điều 2.4.2 và 2.4 của Hiệp định ADA. Tuy nhiên, Ban Hội thẩm theo Điều 21.5 của DSU đã bác bỏ khiếu nại này của Canada.
Giai đoạn Phúc thẩm theo Điều 21.5
Ngày 17/05/2006, Canada thông báo quyết định kháng cáo lên Cơ quan Phúc thẩm một số vấn đề pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo của Ban Hội thẩm.
Ngày 14/07/2006, Cơ quan Phúc thẩm thông báo với DSB rằng họ không thể ban hành Báo cáo trong thời hạn 60 ngày do cần thêm thời gian để hoàn thiện và biên dịch Báo cáo. Cơ quan Phúc thẩm dự kiến sẽ hoành thành các công việc muộn nhất vào ngày 15/08/2006.
Ngày 15/08/2006, Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được gửi tới tất cả các quốc gia thành viên, trong đó
- bác bỏ kết luận của Ban Hội thẩm về phương pháp Zeroing và cho rằng việc áp dụng phương pháp này trong trường hợp so sánh giá thông thường với giá xuất khẩu theo từng giao dịch là không được phép theo Điều 2.4.2 của Hiệp định ADA vì không tính đến tất cả các giao dịch mà đã bỏ qua các giao dịch có giá xuất khẩu cao hơn giá thông thường.
- nhận thấy rằng việc áp dụng phương pháp Zeroing trong Quyết định Mục 129 cũng vi phạm nguyên tắc “so sánh công bằng” theo Điều 2.4 Hiệp định ADA vì đã bóp méo giá xuất khẩu của một số giao dịch không được coi là ở giá trị thực và đẩy mức phá giá lên cao một cách giả tạo làm tăng biên độ phá giá và khả năng bị kết luận bán phá giá.
- hủy bỏ kết luận của Ban Hội thẩm rằng Hoa Kỳ đã thực thi đầy đủ các khuyến nghị và phán quyết của DSB và đề nghị DSB yêu cầu Hoa Kỳ sửa đổi các biện pháp của mình tuân thủ các nghĩa vụ theo Hiệp định ADA.
Tại cuộc họp ngày 01/09/2006, DSB thông qua Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Báo cáo đã điều chỉnh của Ban Hội thẩm.
Đạt được thỏa thuận chung
Ngày 12/10/2006, Hoa Kỳ và Canada thông báo với DSB về việc các bên đã thống nhất được giải pháp chung theo Điều 3.6 của DSU đối với tất các vụ kiện WT/DS236, WT/DS247, WT/DS257, WT/DS264, WT/DS277 và WT/DS311 liên quan đến mặt hàng gỗ xẻ, đó là một thoả thuận toàn diện về mặt hàng gỗ xẻ mềm giữa Hoa Kỳ và Canada ký ngày 12/09/2006 (và do đó, thủ tục trọng tài theo Điều 22.6 cũng chấm dứt).
Ngày 23/02/2007, Hoa Kỳ và Canada thông báo với DSB về một thỏa thuận tiếp theo điều chỉnh thoả thuận ban đầu để tại điều kiện cho thoả thuận này có hiệu lực.