Giải quyết tranh chấp số DS206

14/05/2013    975

Hoa Kỳ - Các biện pháp chống bán phá giá và đối kháng áp dụng đối với sản phẩm thép tấm nhập khẩu từ Ấn Độ

Nguyên đơn

Ấn Độ

Bị đơn:

 

Các Các bên thứ ba:

Hoa Kỳ

 

Chi lê; EC; Nhật Bản

Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn)

Hiệp định SCM: Điều 1011152227; Hiệp định thành lập WTO: Điều XVI:4XVI; Hiệp định ADA (Điều VI của GATT 1994): Điều 1Phụ lục II3566.829.312,152.21818.42.4; GATT 1994: Điều VIVI:1VI:2(a)X

Ngày nhận được yêu cầu tham vấn

04/10/2000

Ngày lưu hành Báo cáo của Ban Hội thẩm

28/06/2002

Bản tóm tắt dưới đây được cập nhật đến ngày 24 tháng 02 năm 2010

Tham vấn

Ngày 04/10/2000, Ấn Độ yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ liên quan cuộc điều tra chống bán phá giá và đối kháng mà Hoa Kỳ tiến hành đối với sản phẩm thép tấm (steel plate) nhập khẩu từ Ấn Độ, cụ thể là:

-          kết luận cuối của DOC ngày 13/12/1999 (phê chuẩn ngày 10/02/2000) khẳng định có hành vi bán phá giá sản phẩm thép tấm carbon chất lượng cao nhập khẩu từ Ấn Độ;

-          việc diễn giải và áp dụng các điều khoản liên quan đến thông tin sẵn có của DOC trong cuộc điều tra trên; và

-          kết luận và diễn giải của ITC về tính không đáng kể, giá trị tích luỹ và thiệt hại đáng kể do hàng nhập khẩu gây ra.

Ấn Độ cho rằng các phán quyết trên là thiếu chính xác và dựa trên các quy trình thủ tục chưa chuẩn xác theo quy định tại một số điều khoản của luật thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng của Hoa Kỳ. Theo Ấn Độ, Hoa Kỳ đã vi phạm, bao gồm nhưng không hạn chế, các Điều VI và X của  GATT 1994; Điều 1, 2, 3 (đặc biệt là mục 3.3), 5 (đặc biệt là mục 5.8), 6 (mục 6.8), 12, 15, 18.4 và Phụ lục II của  Hiệp định ADA; Điều 10, 11 (mục 11.9), 15 (mục 15.3), 22 và 27 (mục 27.10) của Hiệp định SCM và Điều XVI của  Hiệp định WTO.

Giai đoạn Hội thẩm

Tham vấn không thành công, do đó Ấn Độ đã yêu cầu DSB thành lập Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp trong vụ việc này. Ngày 24/07/2001, DSB đã thành lập Ban Hội thẩm. 

Chi lê, EC và Nhật Bản yêu cầu tham gia vào vụ kiện với tư cách bên thứ ba.

Ngày 16/10/2001, do hai bên không thể thống nhất được về thành phần của Ban Hội thẩm, Ân Độ đề nghị Tổng Giám đốc WTO xác định thành viên cho Ban Hội thẩm. Ngày 26/10/2001, các thành viên của Ban Hội thẩm đã được bổ nhiệm.

Ngày 16/04/2002, Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB rằng Ban Hội thẩm không thể hoàn thành công việc trong vòng 6 tháng do có mâu thuẫn về lịch trình làm việc. Ban Hội thẩm dự kiến sẽ hoàn thành Báo cáo vào tháng 06/2002, tùy thuộc vào tốc độ biên dịch.

Ngày 28/06/2002, Báo cáo của Ban Hội thẩm được gửi tới tất cả các quốc gia thành viên, trong đó kết luận:

-          một số điều khoản trong luật pháp Hoa Kỳ quy định việc sử dụng các thông tin sẵn có, cụ thể là Mục 776(a) và 782(d) và (e) của Đạo luật Thuế quan 1930 sửa đổi, là không phù hợp với Điều 6.8 và đoạn 3, 5, và 7 của Phụ lục II, Hiệp định ADA.

-          quá trình điều tra chống bán phá giá sản phẩm thép tấm nhập khẩu từ Ấn Độ của Hoa Kỳ không vi phạm Điều 15 của Hiệp định ADA

-          “thông lệ” mà DOC vẫn áp dụng với “các thông tin sẵn có tổng hợp” không phải là một hành vi có thể khiếu nại riêng về việc đã vi phạm Hiệp định ADA. Do vậy, Ban Hội thẩm không đưa ra phán quyết về vấn đề này.

Đối với các nội dung khác trong đơn kiện của Ấn Độ chưa được đề cập ở trên, Ban Hội thẩm kết luận:

-          không ra phán quyết đối với những khiếu nại đã bị bỏ qua; và

-          theo nguyên tắc “tinh giản tài phán” (không xét xử các vấn đề tương tự các vấn đề đã đưa ra kết luận), Ban Phúc thẩm cho rằng không cần thiết phải đưa ra phán quyết đối với các khiếu nại còn lại của Ấn Độ.

Do đó, Ban Hội thẩm khuyến nghị DSB yêu cầu Hoa Kỳ thay đổi các biện pháp của mình cho phù hợp với các nghĩa vụ của nước này theo Hiệp định ADA.

Tại cuộc họp ngày 29/07/2002, DSB đã thông qua Báo cáo của Ban Hội thẩm.

Thực thi

Ngày 01/10/2002, Hoa Kỳ và Ấn Độ thông báo với DSB rằng họ đã thống nhất được khoảng thời gian cần thiết hợp lý để Hoa Kỳ thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB (theo như Điều 21.3(b) của DSU) là 5 tháng, tính từ ngày 29/07/2002 đến ngày 29/12/2002. Tuy nhiên, ngày 17/01/2003, các bên thông báo lại với DSB về việc thống nhất kéo dài khoảng thời gian trên đến hết ngày 31/01/2003.

Ngày 14/02/2003, Hoa Kỳ và Ấn Độ thông báo với DSB rằng họ đã đạt được thỏa thuận về các thủ tục giám sát việc thực thi các phán quyết và đình chỉ nghĩa vụ theo Điều 21 và 22 của DSU.

Tại cuộc họp của DSB ngày 19/02/2003, Hoa Kỳ thông báo với DSB rằng họ đã hoàn thành các khuyến nghị và phán quyết của DSB.