Giải quyết tranh chấp số DS397
14/05/2013 1254EC - Các biện pháp chống bán phá giá cuối cùng đối với chốt cài bằng sắt hoặc thép nhập khẩu từ Trung Quốc
Nguyên đơn: | Trung Quốc |
Bị đơn: | EC |
Các bên thứ ba: | Braxin; Canada; Chi lê; Colombia; Ấn Độ; Nhật bản; Na-uy; Đài Loan; Thái Lan; Thổ Nhĩ Kỳ; Hoa Kỳ |
Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn) | Hiệp định Thành lập WTO: Điều XVI:4; Hiệp định ADA (Điều VI của GATT 1994): Điều 1, 3.1, 3.2, 3.4, 3.5, 4.1, 5.4, 6.1, 6.2, 6.4,6.5, 6.10, 9.2, 9.3, 9.4, 12.2.2, 2.1, 2.2,17.6, 18.4, 2.4, 2.6; GATT 1994: Điều X:3(a), VI:1 |
Ngày nhận được yêu cầu tham vấn | 31/07/2009 |
Bản tóm tắt dưới đây được cập nhật đến ngày 20/11/2012
Tham vấn
Ngày 31/07/2009, Trung Quốc yêu cầu tham vấn với EC về:
- Điều khoản 9(5) trong Quy định của Hội đồng (EC) số 384/96 (Quy định Cơ bản của EC về Chống bán phá giá). Điều khoản này quy định trong trường hợp hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường thì thuế chống bán phá giá sẽ được xác định chung cho cả nước xuất khẩu chứ không tính riêng cho từng nhà xuất khẩu riêng rẽ. Nhà xuất khẩu muốn được hưởng mức thuế suất riêng sẽ phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn đặt ra trong điều khoản này. Trung Quốc cho rằng Điều 9(5) của Quy định Cơ bản về Chống bán phá giá của EC đã vi phạm các điều:
- Điều XVI:4 của Hiệp định ADA
- Điều I:1, VI:1 và X:3(a) của GATT 1994 và
- Điều 6.10, 9.2, 9.3, 9.4, 12.2.2 và 18.4 của Hiệp định ADA
- Quy định của Hội đồng (EC) số 91/2009 áp đặt thuế chống bán phá giá cuối cùng đối với chốt cài sắt hoặc thép có xuất xứ từ Trung Quốc: Trung Quốc cho rằng EC đã vi phạm các điều:
- Điều VI và X:3(a) của GATT 1994
- Điều 1, 2.1, 2.2. 2.4, 2.6, 3.1, 3.2, 3.4, 3.5, 4.1, 5.4, 6.1, 6.2, 6.4, 6.5, 6.10, 9.2, 9.4 và 17.6(i) của Hiệp định ADA; cũng như là
- Phần I, Đoạn 15 của Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc
- Và, Điều 9.3 và 12.2.2 của Hiệp định ADA
Trung Quốc cáo buộc EC đã hành động không tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo Hiệp định ADA, GATT 1994, và Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc do đã áp dụng Điều 9(5) trong Quy định Cơ bản về Chống bán phá giá của EC trong cuộc điều tra này cũng như các phán quyết và kết luận đưa ra trong cuộc điều tra liên quan đến, và không chỉ giới hạn ở, phạm vi sản phẩm tương tự, quy mô của ngành sản xuất nội địa, phân tích về thiệt hại và thiếu các điều chỉnh so sánh giá trong quá trình tính toán biên độ phá giá.
Giai đoạn Hội thẩm
Tham vấn không thành công, ngày 12/10/2009, Trung Quốc yêu cầu DSB thành lập Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp vụ kiện này. Tại cuộc họp ngày 23/10/2009, DSB đã quyết định thành lập Ban Hội thẩm.
Canada, Ấn Độ, Nhật Bản, Đài Loan và Hoa Kỳ yêu cầu được tham gia vào vụ kiện với tư cách các bên thứ ba. Tiếp đó, Braxin, Chi lê, Colombia, Na-uy, Thái lan và Thổ Nhĩ Kỳ cũng đăng ký tham gia.
Ngày 30/11/2009, do hai bên không thể thống nhất được về thành phần của Ban Hội thẩm, EC yêu cầu Tổng Giám đốc WTO chỉ định thành viên cho Ban hội thẩm. Ngày 09/12/2009, thành phần của Ban Hội thẩm đã được xác định.
Ngày 01/04/2010, Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB rằng họ không thể hoàn thành công việc trong vòng 6 tháng do có mâu thuẫn về lịch trình làm việc. Ban Hội thẩm dự kiến hoàn thành công việc trong tháng 9/2010.