Tại sao Hoa Kỳ cần Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

15/08/2012    78

Tác giả: Bernard K. Gordon

Khi Vòng đàm phán Doha về mậu dịch toàn cầu gần đến năm thứ 12 mà chưa có dấu hiệu chấm dứt, các cuộc đàm phán gần như đã thất bại. Thất vọng vì tình trạng bế tắc của Doha và muốn bành trướng mậu dịch cũng như tạo dựng các liên minh, Hoa Kỳ đã ký kết một loạt các hiệp định tự do mậu dịch song phương (FTA), mà kết quả là đưa đến những hiệp định với Colombia, Panama, và Hàn Quốc vào năm ngoái. Nói chung, những hiệp định này có lợi cho Hoa Kỳ; hiệp định với Hàn Quốc được dự kiến là sẽ gia tăng mậu dịch giữa hai nước thêm hằng tỉ đô la và tạo hằng chục ngàn việc làm cho mỗi nước.

Mặc dù với những kết quả như thế, đường lối song phương không đưa ra nhiều hứa hẹn. Các thỏa thuận năm ngoái đã chấm dứt sự giằng co kéo dài đã 5 năm giữa, một bên, là đại đa số các dân biểu Cộng hòa Hạ viện Mỹ, những thành phần ủng hộ mậu dịch trong cộng đồng doanh nghiệp, và bên kia, là các dân biểu Dân chủ Hạ viện Mỹ, hầu hết các công đoàn, và các hãng chế tạo xe hơi, vốn tranh đấu dữ dội chống lại FTA với Hàn Quốc vì nước này đặt ra những hạn chế kéo dài nhắm vào việc bán xe Mỹ tại đó. Qua một tiến trình khó khăn gồm vận động hành lang, tranh đấu và thỏa hiệp, chính quyền Obama không còn thiết tha gì để có gắng đạt được một hiệp định song phương nào khác nữa.

Thay vào đó, để xúc tiến nghị trình mậu dịch của mình, Nhà Trắng đã lựa chọn một biện pháp trung dung giữa Vòng đàm phán Doha và các FTA  (hiệp định tự do mậu dịch) song phương: một tiến trình đa phương tập trung vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện đang được đàm phán giữa Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ, và Việt Nam. TPP sẽ là một trong những thỏa ước thương mại rộng lớn nhất thế giới. Và nếu Canada, Mexico, và nhất là Nhật Bản (những nước này đều bày tỏ ý muốn tham dự các cuộc đàm phán vào tháng 11 năm ngoái) cũng ký kết hiệp định, TPP sẽ cộng thêm nhiều tỉ đôla vào nền kinh tế Mỹ và sẽ tăng cường các cam kết chính trị, tài chính, và quân sự của Washington đối với khu vực Thái Bình Dương trong nhiều thập kỷ tới. Với tiềm năng như vậy, chính quyền Obama tin rằng TPP có cơ hội để vượt qua sự chống đối trong nước hơn so với  Doha hoặc các thoả ước song phương mới.

Tuy vậy, TPP đang gặp nhiều trở ngại. Các nhà chỉ trích từ một số quốc gia đang tham gia các cuộc đàm phán vì e ngại rằng Hoa Kỳ sẽ cố gắng sử dụng hiệp định này để áp đặt các quy định về mở rộng về bản quyền và bằng sáng chế lên các đối tác thương mại nhằm bảo vệ các doanh nghiệp và các nhà sáng chế của mình. Bức màn tương đối bí mật vây quanh các cuộc đàm phán TPP chỉ đào sâu thêm các mối lo ngại ấy. Những nhà đàm phán cho phép các bên liên quan (interested stakeholders), từ công nghiệp đến đại chúng, trình bày thông tin tại các phiên họp công khai của TPP, nhưng họ không chịu công bố các văn bản đàm phán. Nếu chính quyền Obama không đáp ứng các lo ngại nói trên, thì sẽ có một khả năng ngày càng lớn là TPP có thể suy sụp. Hậu quả này sẽ là một thất bại to lớn đối với chính quyền Obama và phá vỡ luôn cả mục tiêu duy trì sự hiện diện lâu dài của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Binh Dương.

HỨA HẸN THÁI BÌNH DƯƠNG

Với nội dung được đề xuất hiện nay, TPP sẽ vượt quá những phạm trù thường được bao gồm trong các hiệp định thương mại. Trước tiên, trong thập kỷ tới, nó sẽ dần dần loại bỏ mọi thuế quan giữa các quốc gia thành viên. Nễu xem xét mô hình FTA giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc, TPP sẽ ảnh hưởng đến hầu hết các quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên, bao gồm các chính sách đầu tư và thu mua của chính phủ, các tiêu chuẩn môi trường và lao động, nông nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, và các lĩnh vực mới như các công ty quốc doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp có từ 50 đến 500 nhân viên. Hoa Kỳ và các quốc gia đối tác hi vọng rằng TPP sẽ trở thành then chốt của nền tự do mậu dịch trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Nhưng TPP không thể đạt được tiềm năng đó nếu không có sự tham gia của Nhật Bản. GDP của nước này còn cao gấp đôi GDP của tất cả các quốc gia TPP khác cộng lại, nếu không kể đến Hoa Kỳ. Gộp Nhật Bản vào trong nhóm nghĩa là TPP sẽ bao gồm 40% GDP toàn cầu và cộng thêm 60 tỉ đôla cho thị trường xuất khẩu của Hoa Kỳ. Đó là lý do tại sao chính quyền Obama và các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ tuyên bố ủng hộ việc mời thêm Nhật Bản vào TPP khi Tokyo biểu lộ ý muốn gia nhập. Vào tháng 12/2011, hơn 60 tổ chức nông nghiệp và thực phẩm Hoa Kỳ đã gửi một tuyên bố chung đến Ron Kirk, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, và Tom Vilsack, Bộ trưởng Nông nghiệp Hoa Kỳ, khuyến khích họ “tạo điều kiện thuận lợi để Nhật Bản chính thức tham gia vào TPP”. Một tuần sau, Business Roundtable (Bàn tròn Doanh nghiệp), một hiệp hội các tổng giám đốc, và U.S. Business Coalition for TPP (Liên minh Doanh nghiệp Mỹ vì TPP), một tập hợp các công ty ủng hộ hiệp định tự do mậu dịch này, đã gửi những lá thư tương tự đến Đại diện Thương mại Hoa Kỳ. Vào tháng 3/2012 Wendy Cutler, trợ lý Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, đã nói trước một cử tọa tại Tokyo rằng “Việc Nhật Bản tham gia TPP… là quan trọng, mang ý nghĩa lịch sử. Và thành thật mà nói, sẽ rất hào hứng”.

Trước sự hấp dẫn của khả năng này, chính quyền Obama đã chọn TPP làm nguyên tắc cơ bản cho chính sách mậu dịch của mình, và đang làm mọi thứ có thể để hướng hiệp định này theo cách có lợi cho Hoa Kỳ. Chẳng hạn, chính quyền Obama đã nhấn mạnh việc khuyến khích và bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp này ít có kinh nghiệm trong việc giao dịch xuất, nhập khẩu, nhưng Washington hi vọng tăng cường vai trò của những đối tượng này vì chúng tạo ra phần lớn công ăn việc làm tại Mỹ. Vì thế, bằng cách hỗ trợ các doanh nghiệp này, chính phủ Hoa Kỳ có thể giành được sự hỗ trợ trong nước đối với các vấn đề thương mại. Từ lâu, người dân Mỹ đã tỏ ra thờ ơ với thương mạ, vì họ cho rằng thương mại chỉ làm lợi cho người nước ngoài, lấy mất công ăn việc làm của dân Mỹ, và làm gia tăng thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ vốn bị coi là tiêu cực bất kể một thực tế từ lâu là nó gắn với quyền lực thương mại và chính trị của Hoa Kỳ

NHỮNG NHẦM LẪN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Mặc dù chính quyền Mỹ hi vọng những nỗ lực định hình TPP của mình sẽ xoa dịu những lo ngại của giới công nghiệp và công đoàn Hoa Kỳ, TPP đã đụng chạm đến các nhóm lợi ích công cộng và chính phủ các nước khác đang đàm phán hiệp định TPP -- đặc biệt liên quan đến vấn đề sở hữu trí tuệ.

Tháng 1/2011, một bản thảo liên quan quyền sở hữu trí tuệ từ các cuộc đàm phán TPP bị rò rỉ trên mạng. Một số nhóm lợi ích Mỹ và nước ngoài, như Intellectual Property (Cơ quan theo dõi quyền sở hữu trí tuệ), Public Knowledge (Tri thức công cộng), TPP Watch (Cơ quan theo dõi TPP), và Anonymous (Vô danh), đã gay gắt chỉ trích một số biện pháp được thảo ra trong văn bản rò rỉ này. Đặc biệt, họ lên án các đề xuất kêu gọi thi hành luật hình sự đối với các vi phạm bản quyền và bằng sáng chế, cho rằng việc này vi phạm các hiệp định hiện hành giữa các nước đàm phán. Họ cũng quả quyết rằng TPP sẽ đòi hỏi các công ty cung cấp dịch vụ Internet phải nêu danh tánh người sử dụng và rằng Hoa Kỳ đang tìm cách áp đặt một cách vô lý những biện pháp bảo vệ tác quyền rộng rãi của mình trong hiệp định. Luật pháp Hoa Kỳ qui định rằng đại đa số bản quyền phải chấm dứt sau 70 năm, nhưng các nhà chỉ trích cho rằng chính quyền Obama đã đều xuất trong TPP một điều khoản bản quyền tối thiểu 95 năm đối với một số tác phẩm. Hai chuyên gia pháp lý là Sean Flynn và Jimmy Koo đã nắm bắt được sự lo ngại của những người chỉ trích, khi họ viết vào năm 2011 rằng TPP sẽ tạo ra “một công cụ quốc tế cực đoan nhất, chống lại người tiêu dùng và sự phát triển trong linh vực quyền sở hữu trí tuệ từ trước đến nay”.

Chính quyền Obama đã hậu thuẫn những đề xuất này không phải để gây thiệt hại cho giới tiêu dùng nhưng để bảo vệ những nhà phát minh. Quyền sở hữu trí tuệ vốn là một nguồn giá trị chính đối với Hoa Kỳ; vào năm 2010, chẳng hạn, 40% số tiền chi trả cho những người giữ quyền sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới -- gần 100 tỉ đôla – đã vào tay người Mỹ. Theo thông tin của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, những khoản tiền này tương đương với lợi nhuận kiếm được do việc xuất khẩu máy bay, ngũ cốc, và dịch vụ, ba lĩnh vực dẫn đầu thặng dư thương mại của Hoa Kỳ. Và quyền sở hữu trí tuệ của người Mỹ sẽ trở nên quan trọng hơn trong những năm tới khi một số phát kiến công nghệ có cơ sở tại Hoa Kỳ, như các kỹ thuật sản xuất thế hệ mới và thông tin liên lạc không dây tiên tiến, sẽ thúc đẩy sự phát triển thương mại của Hoa Kỳ. Những người sáng tạo ra những công nghệ này sẽ cần đến sự che chở của TPP ở mức độ ngang hàng mức độ bảo vệ của Luật pháp Hoa Kỳ đối với với những người nắm giữ bản quyền và các bằng sáng chế.

Hoa Kỳ gần như không phải là quốc gia duy nhất trong TPP TPP có lợi ích trong việc bảo vệ bản quyền quyền và bằng sáng chế cho công dân mình. Năm 2008, chẳng hạn, Nhật Bản đã dẫn đầu thế giới về số đơn xin bằng sáng chế. Và Singgapore, với những đầu tư công nghệ sinh học đáng giá nhiều tỉ đôla, cũng cần bảo vệ vấn đề này. Như vậy, Hoa Kỳ bảo vệ các chủ sở hữu của nước mình thì cũng bảo vệ các chủ sở hữu của các nước khác trong TPP. Nhưng rõ ràng là, một vài nước đang đàm phán hiệp định không cho rằng Hoa Kỳ quan tâm đến lợi ích cao nhất của họ.

CÁC THẢO LUẬN TỰ DO

Bất chấp quan tâm rộng lớn trong việc bảo vệ mạnh mẽ quyền sở hữu trí tuệ giữa vài nước đàm phán TPP, một số quốc gia khác tiếp tục cáo buộc rằng Hoa Kỳ đang đưa ra những đòi hỏi vô lý. Tại phiên đàm phán TPP thứ 11, tại Australia tháng ba vừa qua, chẳng hạn, báo chí Úc tường thuật rằng mọi thành viên đàm phán TPP đều bác bỏ các đề xuất của Hoa Kỳ liên quan quyền sở hữu trí tuệ. Và vào giữa tháng tư, một số nhà đàm phán của Chi Lê đã bày tỏ hoài nghi về tương lai của hiệp định khi họ đặt nghi vấn là “liệu việc gia nhập TPP có xứng với những thiệt hại do nó gây ra nếu hiệp định này bao gồm thêm nhiều đòi hỏi về quyền sở hữu trí tuệ”.

Trong khi đó, trong suốt các phiên họp tương tự tại Australia vào tháng Ba, một số tổ chức đã lên án TPP về khả năng gây ra sự khan hiếm thuốc rẻ. Tổ chức Y sĩ không Biên giới, chẳng hạn, cáo buộc Hoa Kỳ về việc đưa vào TPP những điều khoản sẽ gây trở ngại cho việc cung cấp  các loại thuốc trị sốt rét và HIV/AIDS với giá rẻ cho những quốc gia đang phát triển. Trong một vòng đàm phán TPP trước đó, tổ chức này cho rằng hiệp định TPP sẽ “gia hạn việc bảo vệ độc quyền cho các loại thuốc cũ bằng cách chỉ làm một vài thay đổi nhỏ trong các công thức hiện hữu”, do đó ngăn chặn các công ty bào chế khác đưa ra các loại thuốc tương đương với giá rẻ hơn (cheaper generic drugs).

Chính phủ Hoa Kỳ không phản ứng lại tất cả các cáo buộc nhắm vào mình trong tiến trình đàm phán TPP, nhưng vào cuối tháng hai, Demetrios Marantis, phó đại diện thương mại Hoa Kỳ, nói rằng văn phòng của ông “hết sức bất đồng” với quan điểm của Tổ chức Bác sĩ không biên giới. Ông nêu rõ rằng sáu tháng trước đó Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ đã thiết lập một chương trình TPP gồm 9 điểm mang tên “Trade Enhancing Access to Medicines” (Thương mại giúp tăng cường tiếp cận thuốc men), mà theo như ông này thì để nhằm đảm bảo rằng “Các loại thuốc giá rẻ có thể tiếp cận thị trường càng sớm càng tốt”.

Như vậy, chí ít Hoa Kỳ đã giải quyết những lo ngại của những người hoài nghi TPP. Nhưng một vấn đề nghiêm trọng hơn vẫn còn tồn tại. Trong thời đại Internet, những tin đồn về các điều khoản trong hiệp định có thể nhanh chóng châm ngòi cho một sự phản đối khắp nơi trên thế giới. Chỉ có một đường lối minh bạch hơn và cung cấp thông tin đầy đủ hơn về tiến trình đàm phán mới có thể chặn đứng những tin đồn như thế. Và, mặc dù Hoa Kỳ và các quốc gia đối tác đã tỏ ra muốn tiếp thu ý kiến của những cá nhân và tổ chức có quan tâm, nhưng các quốc gia này chưa thật sự công khai hóa tiến trình đàm phán với đại chúng, do đó gây ra những lo lắng chính đáng về hình thái sau cùng của hiệp định. Chẳng hạn, vào tháng giêng, Gary Horlick, một luật sư thương mại nổi tiếng và là cựu viên chức thương mại Hoa Kỳ, đã mô tả tiến trình TPP là “cuộc đàm phán thương mại kém minh bạch nhất mà tôi đã chứng kiến”. Mặc dù Kirk, đại diện thương mại Hoa Kỳ, đã gọi các cuộc đàm phán này là “tiến trình cởi mở, minh bạch nhất từ trước đến nay”, nhóm công tác của ông đã trình bày rất ít về lập trường của Mỹ trước công chúng và thậm chí trước những tổ chức quan tâm không chính thức tham gia các cuộc thảo luận TPP.

Vấn đề này đã trở nên căng thẳng vào tháng hai vừa qua, khi 23 tổ chức Mỹ đại diện cho các thư viện của hầu hết mọi cơ quan nghiên cứu và đại học của Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền Obama “phải cho phép công chúng được tự do tiếp cận” các bản thảo của cuộc đàm phán. Họ lý luận rằng các điều khoản của TPP “sẽ ảnh hưởng đến mọi gia đình Mỹ” và rằng “việc thực thi và bền vững của các quy định đó… đòi hỏi tính minh bạch tối đa”. Vài ngày sau đó, Thượng nghị sĩ Ron Wyden (Dân chủ - bang Oregon) nêu yêu cầu này trong một cuộc trao đổi căng thẳng với Kirk. Đáp lại lời tuyên bố của Wyden, Kirk cho rằng chính quyền Obama đã “có động thái tiết lộ thông tin nhiều hơn và sớm hơn bất cứ một chính quyền nào trước đây”.

Không thoả mãn với câu trả lời của Kirk, Wyden đã đưa một dự luật đòi hỏi chính quyền phải tiết lộ bất cứ một văn bản đàm phán TPP nào “không quá 24 giờ sau khi văn bản đã được chia sẻ với các bên đàm phán khác”. Đề nghị của Wyden không gây được ảnh hưởng, nhưng những tiếng nói ầm ỉ đòi hỏi một sự cởi mở hơn nữa trong các cuộc đàm phán TPP vẫn còn tiếp diễn tại Hoa Kỳ cũng như ở nước ngoài.

MỘT LOẠI HIỆP ĐỊNH MỚI

Nếu các cuộc đàm phán TPP đạt được kết quả mong muốn, Hoa Kỳ sẽ trở nên hùng mạnh hơn, về kinh tế lẫn chính trị, trong thế hệ tới. Một thỏa thuận bao gồm cả Nhật Bản về cơ bản sẽ đem đến motọ FTA giữa Washington và Tokyo, đại diện cho điều mà lâu nay Mỹ vẫn tìm kiếm là “mở cửa Nhật Bản lần thứ ba” đồng thời khẳng định quyền lực Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương. Nói rộng ra, Hoa Kỳ hi vọng rằng TPP sẽ củng cố một hệ thống thương mại mở, nối kết giữa các thành viên lại với nhau trene nguyên tắc đồng thuận

Đó là lý do tại sao chính phủ Hoa Kỳ hi vọng hoàn tất các đàm phán vào cuối năm nay. Nhưng trước tiên, chính phủ này phải thuyết phục được lực lượng chống đối TPP ở trong nước, đặc biệt là ngành ô tô, bảo hiểm, và nông nghiệp Mỹ. Ngoài ra, chính phủ Hoa Kỳ cần phải hòa giải, trong bất cứ trường hợp nào có thể, những lo ngại của các nhà phê bình ở trong nước cũng như ở nước ngoài về những đòi hỏi liên quan quyền sở hữu trí tuệ. Và Hoa Kỳ phải minh bạch hóa hơn nữa tiến trình đàm phán. Nếu chính quyền Obama không chịu đi những bước này, thì nó có khả năng mất một cơ hội dọn đường cho một loại thỏa ước mậu dịch mới và tái khẳng định vai trò kinh tế và chính trị của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương.

BERNARD K. GORDON là Giáo sư Danh dự Khoa Chính trị tại Đại học New Hampshire. Ông là tác giả cuốn America’s Trade Follies (Những Điên rồ Mậu dịch của Mỹ) và một cuốn sách sắp ra về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Binh Dương.

 

Nguồn: www.foreignaffairs.com