Khuyến nghị của cộng đồng doanh nghiệp VN chương Sở hữu trí tuệ trong TPP - Quan điểm chung

15/08/2012    64

Bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ (IP) là một trong những lĩnh vực được quan tâm trong khuôn khổ các đàm phán FTA gần đây của các nước phát triển. Sở hữu trí tuệ vì vậy cũng là một chủ đề lớn trong đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định được cho là “thế hệ mới”, “tiêu chuẩn cao” giữa chín nước trong đó có những nước phát triển ở mức độ cao như Hoa Kỳ, phát triển ở mức độ vừa phải như Úc, New Zealand, Singapore, Brunei, Chi lê và cả các nước đang phát triển như Malaysia, Peru, Việt Nam. 

Đối với Hoa Kỳ, một thành viên có tiếng nói quan trọng trong đàm phán TPP, IP là vấn đề luôn được nhấn mạnh trong đàm phán, theo hướng TRIPS+ (các đòi hỏi về mức độ bảo hộ IP cao hơn mức độ đã được ghi nhận tại Hiệp định WTO về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)). Điều này cũng được thể hiện rất rõ ràng trong Dự thảo Chương IP (bản bị tiết lộ tháng 5/2012) mà Hoa Kỳ đưa ra trong đàm phán này.

Theo thông tin được tiết lộ thì trong đàm phán Chương IP, các nước đối tác TPP có những cách tiếp cận riêng căn cứ vào những lợi ích cụ thể của mình trong vấn đề này. Bài viết dưới đây sẽ phân tích các khía cạnh kinh tế xã hội cụ thể của Việt Nam từ góc độ lợi ích của doanh nghiệp, người dân và của cả nền kinh tế, từ đó kiến nghị các quan điểm tiếp cận thích hợp với Việt Nam trong vấn đề này.

Lựa chọn nào thích hợp: “Lợi ích suy đoán” hay “Thiệt hại có thật”?

Về nguyên tắc, IP là vấn đề gắn với sáng tạo, tri thức, trí tuệ của con người, là động lực và cơ sở cho mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Bảo hộ các quyền IP là bảo vệ quyền lợi cho người sáng tạo/sở hữu các sản phẩm trí tuệ này, khuyến khích và tạo động lực cho họ tiếp tục sáng tạo, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng cuộc sống. Cũng như Chính phủ Việt Nam, doanh nghiệp và người dân Việt Nam nhận thức khá rõ về những lợi ích cũng như sự cần thiết của việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trong thúc đẩy năng lực sáng tạo, tiến tới một nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một sự phát triển bền vững. Do đó, đã có một sự đồng thuận tương đối trong việc Việt Nam tham gia dần dần vào những Công ước quốc tế quan trọng trong việc bảo hộ IP (các Công ước WIPO) theo một lộ trình thích hợp.

Từ góc độ kinh tế vĩ mô, vấn đề bảo hộ IP cũng được biết tới như là một trong những yếu tố có thể giúp thu hút đầu tư, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, góp phần vào việc xây dựng nền sản xuất hiện đại hóa. Trong hoàn cảnh các nước đang phát triển như Việt Nam có nhu cầu rất lớn về thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đây là các lợi ích rất hấp dẫn mà các đối tác phát triển trong các đàm phán FTA thường đặc biệt nhấn mạnh khi thuyết phục các nước đang phát triển chấp nhận các yêu cầu bảo hộ cao về IP.

Mặc dù vậy, nhiều phân tích logic cho thấy những lợi ích được kỳ vọng này không hoàn toàn thuyết phục và thống kê thực tế không xác định được có sự gắn kết tương đối giữa việc tăng cường mức độ bảo hộ IP và sự gia tăng FDI hay phát triển khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển.


Tăng cường bảo hộ IP có phải là điều kiện cần để thu hút FDI?

Một lập luận ủng hộ việc tăng cường các tiêu chuẩn bảo hộ IP là điều sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), bởi các nhà đầu tư sẽ không phải lo ngại về việc công nghệ của mình bị đánh cắp ở nước nhận đầu tư.

Trên thực tế, các nghiên cứu lý thuyết cũng như số liệu thực tiễn đã chỉ ra rằng đây không phải lập luận có căn cứ.

Về mặt lý thuyết, FDI mà các nước đang phát triển mong muốn và kêu gọi là các khoản đầu tư dài hạn, với các nhà máy, cơ sở sản xuất mở tại nước sở tại, sử dụng nhân công địa phương, sản xuất ra hàng hóa xuất khẩu và (nếu có thể) chuyển giao công nghệ sản xuất và kỹ năng quản lý.

Nếu thực sự đầu tư theo cách này, nhà đầu tư nước ngoài được suy đoán là quan tâm nhiều hơn đến việc pháp luật nước sở tại về lao động có đủ nghiêm khắc để đảm bảo rằng người lao động sẽ không học lỏm phương thức sản xuất, công nghệ hiện đại của nhà đầu tư để rồi tự mở cơ sở sản xuất của mình hoặc sang làm việc cho đối thủ cạnh tranh.

Ngược lại, nếu một nhà đầu tư chỉ quan tâm tới việc mở một cơ sở/văn phòng đại diện nhỏ để qua đó nhập khẩu các thành phẩm vào bán tại nước sở tại thì họ sẽ rất chú trọng tới pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu, bản quyền, sáng chế… để đảm bảo rằng các công ty nội địa của nước sở tại sẽ không bắt chước sản phẩm của họ và khiến họ mất thị phần.

Nói cách khác, tăng cường bảo hộ IP không giúp các nước đang phát triển thu hút được FDI đích thực mà hầu như chỉ tạo điều kiện cho các kiểu FDI ngắn hạn, bề mặt, hầu như không mang lại lợi ích đáng kể cho nước nhận đầu tư.

Các số liệu thực tế về tình hình FDI ở các nước cũng cho thấy không có mối liên hệ rõ ràng nào giữa việc gia tăng mức độ bảo hộ IP và hiệu quả thu hút FDI.

Ví dụ, Trung Quốc và Ấn Độ có mức độ bảo hộ IP thấp nhưng vẫn có thể thu hút nguồn FDI khổng lồ. Trong khi đó các nước châu Phi với tiêu chuẩn bảo hộ IP thuộc hàng cao nhất (do tiếp thu gần như toàn bộ pháp luật từ các nước phát triển) lại có mức thu hút FDI khiêm tốn, nếu không nói là rất thấp.

Đối với cùng một nước, tình hình cũng tương tự. Ví dụ trước năm 1970, Ấn Độ là nước có hệ thống bảo hộ sáng chế rất mạnh do thừa hưởng từ các quy định của Anh (mà Ấn Độ là thuộc địa trước đây). Trong thời gian này, FDI vào Ấn Độ hầu như không đáng kể. Từ sau năm 1970, thời điểm Ấn Độ sửa lại Luật Sáng chế của mình theo hướng giảm bớt mức độ bảo hộ, nước này đã chứng kiến sự gia tăng ấn tượng về FDI. Ở Pháp, khi mức độ bảo hộ sáng chế trở nên quá nặng nề, hàng loạt các công ty hóa chất và nhuộm của nước này đồng loạt chuyển sản xuất sang Thụy Sỹ, nơi pháp luật không thừa nhận bảo hộ các loại hóa chất dưới hình thức sáng chế.

Nghiên cứu của Liên Hợp quốc về mối liên hệ giữa bảo hộ IP và FDI cũng cho thấy không có mối liên hệ rõ ràng nào giữa hai yếu tố này. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng chi phí, quy mô thị trường, trình độ nhân lực, cơ sở hạ tầng và các điều kiện kinh tế vĩ mô mới là các yếu tố quan trọng nhất quyết định hiệu quả thu hút đầu tư.

Do đó, từ cả góc độ logic lý thuyết lẫn số liệu thực tế, không có cơ sở nào để khẳng định tăng cường bảo hộ IP sẽ là cơ sở thu hút FDI mạnh mẽ, nếu không nói là ngược lại.

Nguồn: Các quyền sở hữu trí tuệ trong các Hiệp định thương mại tự do, Sanya Reid Smith, TWN 2008

 

Tăng cường bảo hộ IP có giúp phát triển khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển?

Bảo hộ IP, bảo vệ các quyền và lợi ích của những tổ chức/cá nhân sở hữu các sáng tạo, vốn được cho là cơ chế cần thiết để khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.

Điều được xem là khá hiển nhiên này trên thực tế lại không hoàn toàn chính xác khi nhìn từ góc độ sự phát triển chung của hoạt động nghiên cứu, phát triển và sáng tạo của xã hội.

Trong lịch sử phát triển của loài người, mọi bước sáng tạo, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, là sự kế thừa những bước sáng tạo trước đó, người sáng tạo sau đứng trên vai những người sáng tạo đi trước để sáng tạo và xây dựng nền khoa học thế giới đồ sộ như hiện nay.

Bảo hộ IP có thể là động lực vật chất để các cá nhân, tổ chức sáng tạo nhưng không phải là cơ chế để khuyến khích sáng tạo trong cộng đồng. Điều này đúng không chỉ đối với các nước đang phát triển, nơi nhu cầu sử dụng tri thức, khoa học, sáng tạo đã có để phát triển là rất lớn, mà còn đúng cả với các nước phát triển.

Có trên 50 loại protein liên quan đến bệnh ung thư mà công ty chúng tôi không thể triển khai nghiên cứu được bởi các tổ chức nắm giữ bản quyền sáng chế các loại protein này từ chối cấp li-xăng hoặc đòi mức phí li-xăng quá cao” – Trích phát ngôn của Cán bộ phụ trách khoa học của công ty dược Bristil-Myers Squibb.

Từ góc độ này, thay vì khuyến khích sáng tạo, bảo hộ IP có thể là hàng rào cản trở sáng tạo của xã hội.

Ở góc độ khác, sáng tạo có thể phát triển mà không cần dựa vào hệ thống quy định bảo hộ IP nào. Phần lớn các sáng tạo, phát minh nổi tiếng nhất của Thụy Sỹ được thực hiện vào giai đoạn trước khi nước này có pháp luật bảo hộ IP. Tương tự với các phát minh trong công nghiệp chế tạo máy ở Đài Loan… Ở Phương Tây, những sáng tạo quan trọng nhất, cơ bản nhất được thực hiện vào thời Phục Hưng, khi chưa có quy định bảo hộ IP nào. Ở Phương Đông, các loại thuốc đông y truyền thống được tìm tòi, sáng tạo từ hàng nghìn năm nay và được sử dụng bởi hàng ngàn cộng đồng dân cư theo các cách thức khác nhau mà không cần một hệ thống bảo hộ IP nào để khuyến khích phát triển.

Theo một điều tra do Công ty Carnegie tiến hành với khoảng 2000 giám đốc nghiên cứu thì pháp luật bảo hộ IP (sáng chế và các quy định khác) đứng cuối cùng trong 5 yếu tố có tác động lớn nhất đối với sáng tạo (trước đó là Tính bảo mật, Thời gian, Sản xuất hỗ trợ, Dịch vụ/Bán hàng hỗ trợ).

Nguồn: “Chống độc quyền trí tuệ”, Boldrin&Levin, 2007

Bảo hộ IP gắn với việc bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu IP và ngăn cản việc phổ biến, sử dụng rộng rãi các sản phẩm IP đó trong cộng đồng. Nói một cách khác, ở đây có sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích chung của cộng đồng. Việc tìm ra một điểm cân bằng cần thiết giữa hai nhóm lợi ích này cần được thực hiện trên cơ sở phân tích hoàn cảnh kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kỳ.

Đối với Việt Nam, bảo hộ IP cần được đánh giá trong mối tương quan giữa yêu cầu bảo vệ quyền của chủ sở hữu IP với nhu cầu tiếp cận tri thức, công nghệ và các sản phẩm sáng tạo với mức chi phí chấp nhận được của các ngành khoa học, sản xuất, của Nhà nước, các tổ chức nghiên cứu, sản xuất cũng như của người dân Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh Việt Nam là nước đang phát triển, và chúng ta đang ở bước sơ khai trong tiến trình ba cấp độ phát triển về khoa học công nghệ của thế giới (bao gồm cấp độ 1 - làm theo, cấp độ 2 - cải tiến; cấp độ 3 - sáng tạo), nhu cầu của công chúng, của nền kinh tế cũng như của sự nghiệp phát triển khoa học trong việc tiếp cận tri thức, khoa học và công nghệ đã có sẵn của thế giới với chi phí thấp hoặc không mất phí  (để có thể “làm theo” được) là rất lớn.

Lịch sử phát triển ở nhiều nước trên thế giới cũng đã chứng minh chính khả năng tiếp cận thuận lợi, dễ dàng các tri thức khoa học là tiền đề và cơ sở để các quốc gia phát triển. Trong khi đó các quy định bảo hộ IP ngày nay hướng tới việc bảo vệ tối đa quyền lợi của các cá nhân/tổ chức sở hữu và nắm giữ tri thức, khoa học công nghệ, và vì vậy hạn chế quyền tiếp cận tri thức và khoa học của công chúng ở những mức độ nhất định. Quy định IP càng cao (chặt chẽ), khả năng tiếp cận của công chúng đối với các tri thức, công nghệ cần thiết càng giảm, và cơ hội để phát triển cũng bị hạn chế tương ứng. Đây chính là lý do mà việc tăng cường bảo hộ IP ở mức độ cao nhất có thể hầu như chỉ thích hợp với các nước ở phát triển đến cấp độ 3 (cấp độ sáng tạo) – những nước đã chuyển từ nhập khẩu công nghệ sang xuất khẩu công nghệ.

Tóm lại, trong khi bảo hộ IP là điều đã được thừa nhận là cần thiết và hợp lý, các nước đang phát triển như Việt Nam luôn phải đứng giữa hai lựa chọn về mức độ bảo hộ: hoặc là giảm mức độ bảo hộ IP để thúc đẩy phát triển phục vụ lợi ích của số đông, hoặc là tăng mức bảo hộ IP dưới áp lực của các đối tác thương mại với hy vọng có thể khuyến khích sáng tạo và thu hút FDI.

Việt Nam, vì vậy, phải nỗ lực để dung hòa giữa nhu cầu tăng cường khả năng tiếp cận tri thức khoa học của đất nước và áp lực bảo hộ IP đang gia tăng từ các cam kết thương mại. Về nguyên tắc, nếu việc bảo hộ IP mang đến lợi ích cho một nhóm nhỏ nhưng ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích công cộng của một nhóm lớn hơn thì bảo hộ IP cần phải được xem xét lại. Nếu những lợi ích hứa hẹn từ việc bảo hộ IP (như thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sáng tạo) đi ngược lại lợi ích thực tế trong phát triển của đất nước thì việc bảo hộ đó càng cần được cân nhắc thận trọng.

Trên thực tế, các nước này lựa chọn chấp nhận bảo hộ IP nhưng việc bảo hộ là có giới hạn.

Mức độ bảo hộ IP như thế nào là thích hợp?

Các quy định về IP trong khuôn khổ WTO (Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - TRIPS) được xây dựng trên cơ sở yêu cầu của các nước phát triển, nhóm nắm thế chủ động trong đàm phán Uruguay thành lập Tổ chức WTO này.

TRIPS bị phê phán là không phù hợp với nhu cầu và trình độ phát triển của các nước đang và kém phát triển bởi các tiêu chuẩn quá cao, bảo vệ lợi ích của một nhóm thiểu số giàu có (đa phần từ các nước phát triển) chống lại lợi ích công cộng của số đông ở các nước này.

Mặc dù vậy, các nước đang phát triển trong WTO cũng đều đã phải chấp nhận các chuẩn bảo hộ IP này trong TRIPS. Đây được xem như sự nhượng bộ và giới hạn tối đa mà các nước đang phát triển có thể chấp nhận được trong vấn đề này (nói cách khác, TRIPS là “điểm dung hòa” tối đa về vấn đề bảo hộ IP đối với các nước này).

TRIPS+, cách gọi khác của các yêu cầu bảo hộ IP cao hơn so với TRIPS, vì thế, là điều đi ngược lại lợi ích chung của các doanh nghiệp, của nền kinh tế cũng như của toàn xã hội ở những nước như Việt Nam.

Gia nhập WTO, Việt Nam đã chấp nhận áp dụng toàn bộ những tiêu chuẩn về bảo hộ IP trong TRIPS (mặc dù tại thời điểm gia nhập WTO, nhiều chuyên gia cũng đã cảnh báo rằng các tiêu chuẩn này là quá cao so với Việt Nam). Trong thời gian qua, việc đảm bảo thực thi các cam kết trong khuôn khổ WTO về vấn đề này đã và đang là thách thức đối với Việt Nam, không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với cả cộng đồng.

Tham gia đàm phán TPP với nhiều đòi hỏi TRIPS+, Việt Nam ở một vị thế khác so với đàm phán WTO, Việt Nam có quyền có tiếng nói riêng của mình dựa vào nhu cầu thực tế của Việt Nam về vấn đề này thay vì phải chịu áp đặt như khi đàm phán WTO. Và vì vậy, việc đưa ra các cam kết về IP, vấn đề có liên quan đến những lợi ích cộng đồng quan trọng, cần được cân nhắc một cách cẩn trọng và kiên quyết.

Hơn nữa, sau TPP, Việt Nam đang dự định tham gia đàm phán nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) với những đối tác quan trọng (ví dụ EU, Nga…). Những cam kết trong TPP có thể là một “ràng buộc” (“trần dưới”) cho những cam kết trong các FTA tương lai này. Vì vậy, đàm phán TPP càng cần phải thận trọng nhiều hơn.

Tóm lại, nhìn tổng thể, từ nhu cầu thực tế của Việt Nam, các yêu cầu về TRIPS+ nói chung và TRIPS+ trong TPP (với đối tác lớn, nguồn xuất khẩu tri thức và khoa học quan trọng mà Việt Nam cần tiếp cận như Hoa Kỳ) cần phải loại bỏ hoàn toàn khỏi lời văn cam kết mở cửa. Và điều này là hoàn toàn khả thi từ góc độ nguyên tắc đàm phán TPP.