Giải quyết tranh chấp số DS429

18/06/2012    10616

Hoa Kì: Các biện pháp chống bán phá giá với tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam

Tiêu đề:

 

Nguyên đơn:

Việt Nam

Bị đơn:

Hoa Kì

Các bên thứ ba:

 

Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn):

Hiệp định thành lập WTO: Điều XVI:4

Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (DSU): Điều 3.7, 19.1, 21.1, 21.3, 21.5

Hiệp định chống bán phá giá (Điều VI của GATT 1994): Điều 1, Phụ lục II, 6, 9, 11, 2.1, 17.6(i), 2.4, 2.4.2

GATT 1994: Điều VI:2, 1.1, VI:1,VI:2(a), X

Yêu cầu tham vấn ngày:

 20 tháng 02 năm 2012

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện

Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện tới ngày 05 tháng 03 năm 2015.

Tham vấn

Nguyên đơn là Việt Nam.

Ngày 16/02/2012, Việt Nam yêu cầu tham vấn với Hoa Kì về các biện pháp chống bán phá giá áp dụng cho sản phẩm tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Ngoài hai lần rà soát hành chính và rà soát cuối kì (sunset review), yêu cầu tham vấn lần này của phía Việt Nam còn dẫn chiếu tới pháp luật, quy định, thủ tục và thực tiễn áp dụng của Hoa Kì, bao gồm cả phương pháp “quy về 0” (zeroing).

Việt Nam khiếu nại rằng các biện pháp trên không tuân thủ các nghĩa vụ của Hoa Kì theo:

  •  Các điều I:1, VI:1, VI:2 và X:3(a) của Hiệp định GATT 1994;
  •  Các điều 1, 2.1, 2.4, 2.4.2, 6, 9, 11, 17.6(i) và Phụ lục II của Hiệp định về chống bán phá giá;
  •  Điều XVI:4 của Thỏa thuận WTO; 
  •  Các điều 3.7, 19.1, 21.1, 21.3 và 21.5 của Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (DSU); và
  •  Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.

Ngày 17/01/2013, Việt Nam yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) thành lập Ban hội thẩm. Tuy nhiên, tại cuộc họp ngày 28/01/2013, DSB đã trì hoãn việc này.

Ngày 27/02/2013, Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva (Thụy Sỹ) đã đề nghị lập Ban Hội thẩm tại phiên họp chính thức của Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) đối với Mỹ và đã được DSB chấp thuận.

Diễn biến tại Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm

Tại cuộc họp ngày 27/02/2013, DSB đã thành lập Ban hội thẩm. Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Na Uy, Thái Lan và sau đó là Ecuador đã bảo lưu các quyền của bên thứ ba. Sau thỏa thuận giữa các bên, Ban hội thẩm được thành lập vào ngày 12 tháng 7 năm 2013. Ngày 30/01/2014, Chủ tịch của Ban hội thẩm thông báo với DSB rằng Ban hội thẩm dự kiến sẽ đưa ra báo cáo cuối cùng cho các bên vào ngày 30 tháng 9 năm 2014.

Ngày 17/11/2014, Báo cáo của Ban hội thẩm được gửi tới các thành viên. Ban hội thẩm nhận định rằng các biện pháp của Hoa Kỳ là không phù hợp với GATT 1994 và Hiệp định chống bán phá giá; đồng thời, đề nghị Hoa Kỳ có các biện pháp liên quan phù hợp hơn với những nghĩa vụ của nước này theo các Hiệp định. 

Tóm tắt các kết quả chính

Việt Nam đã lập luận rằng:

(i)        Việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDOC) đã sử dụng phương pháp "quy về không" trong đợt rà soát hành chính lần thứ tư, thứ năm và thứ sáu đối với các đơn đặt hàng tôm là không phù hợp với Điều 9.3 của Hiệp định chống bán phá giá và Điều VI: 2 của GATT 1994;

(ii)       Các biện pháp của USDOC sử dụng trong các vụ kiện chống bán phá giá liên quan đến hàng nhập khẩu từ các nước NMEs, trong đó việc ấn định một tỷ lệ biên độ phá giá chung (NME-wide entity) cho tất cả các nhà sản xuất và xuất khẩu là không đủ để chứng minh sự độc lập trước kiểm soát của chính phủ; cách thức mà Hoa Kỳ sử dụng trong đợt rà soát hành chính lần thứ tư, thứ năm và thứ sáu là không phù hợp với các Điều 6.10, 9.2, 9.4 và 6.8 của Hiệp định chống bán phá giá;

(iii)     Mục 129 (c) (1) của URAA, theo quan điểm của Việt Nam, đã giúp chính quyền Mỹ trì hoãn việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB đối với các mục cần ưu tiên, và rằng vẫn tồn tại những vấn đề liên quan đến việc thanh quyết toán, đó là ngày "bút toán không được định trước", không nhất quán với các Điều 1, 9.2, 9.3, 11.1 và 18.1 của Hiệp định chống bán phá giá.

(iv)     Việc USDOC dựa trên biên độ bán phá giá được tính bằng phương pháp "quy về không" đã dẫn tới USDOC không thể đưa ra lập luận vững chắc cũng như không thể tiến hành đánh giá một cách khách quan trong lần rà soát cuối kỳ đầu tiên đối với đơn đặt hàng tôm; điều này là không phù hợp với Điều 11.3 và 17.6 của Hiệp định chống bán phá giá; và

(v)       Việc USDOC không thực hiện thu hồi lệnh áp thuế chống bán phá giá đối với một số công ty mà Việt Nam cho rằng đã chứng minh được không có hành vi bán phá giá trong đợt rà soát hành chính thứ ba, thứ tư và thứ năm, do vậy Hoa Kỳ đã vi phạm Điều 11.1 và 11.2 của Hiệp định chống bán phá giá.

Hoa Kỳ yêu cầu Ban hội thẩm bác bỏ các lập luận của Việt Nam bằng cách ra phán quyết sơ bộ trong đó tuyên bố rằng một số lập luận của Việt Nam trong việc yêu cầu thành lập một Ban hội thẩm là nằm ngoài phạm vi liên quan của Ban hội thẩm.

Phán quyết sơ bộ giải quyết các phản đối của Hoa Kỳ về thẩm quyền Ban hội thẩm

Ngày 26/9/2013, Ban hội thẩm đã đưa ra một phán quyết sơ bộ trong đó bác bỏ lập luận của Mỹ rằng lần rà soát hành chính thứ sáu không nằm trong phạm vi xem xét. Ban hội thẩm cũng từ chối đưa ra bất kỳ quyết định nào đối với những phản đối còn lại của Hoa Kỳ trước những ám chỉ của Việt Nam rằng nước này sẽ không theo đuổi những cáo buộc tương ứng.

Các khiếu nại đối với phương pháp quy về không trong rà soát hành chính

Đối với những cáo buộc của Việt Nam liên quan đến “bản thân quy định” (as such) của phương pháp quy về không trong rà soát hành chính (vào tháng 4 năm 2012, USDOC đã sửa đổi phương pháp tính toán của mình trong rà soát hành chính), Ban hội thẩm nhận định rằng Việt Nam đã không chứng minh được có sự tồn tại của một biện pháp được coi như một quy tắc hay tiêu chí chung và có sự áp dụng theo định hướng. Do đó, Ban Hội thẩm bác bỏ các cáo buộc của Việt Nam rằng có sự vi phạm Điều 9.3 của Hiệp định Chống bán phá giá và Điều VI: 2 của GATT 1994.

Đối với các lập luận về "cách áp dụng" (as applied) của Việt Nam, Ban Hội thẩm cho rằng việc USDOC sử dụng phương pháp “quy về không” để tính toán biên độ phá giá của các nhà sản xuất và xuất khẩu riêng lẻ của Việt Nam trong ba đợt rà soát hành chính là không tuân thủ Điều 9.3 của Hiệp định chống bán phá giá và Điều VI:2 của GATT 1994.

Các khiếu nại đối với việc áp tỷ lệ biên độ phá giá chung của USDOC

Đối với việc gán tỷ lệ biên độ phá giá chung của USDOC, Ban hội thẩm kết luận rằng Việt Nam đã thành công khi chứng minh được sự tồn tại của một tỷ lệ biên độ phá giá chung như một quy ước hay tiêu chuẩn chung và có sự áp dụng theo định hướng là không hợp lý, và như vậy Việt Nam đã chứng minh được rằng, trong các vụ kiện chống bán phá giá liên quan đến các nước có nền kinh tế phi thị trường (NME), USDOC đã áp dụng giả định cho rằng tất cả các công ty của một nước NME cấu thành nên một thực thể duy nhất, và do đó đã áp dụng một tỷ lệ biên độ phá giá chung cho toàn bộ các công ty ở một nước NME. Ban hội thẩm cho rằng biện pháp này khi áp dụng trong rà soát hành chính lần thứ tư, thứ năm và thứ sáu là không phù hợp với các Điều 6.10 và 9.2 của Hiệp định chống bán phá giá.

Ban hội thẩm cho rằng Việt Nam đã không chứng minh được USDOC đã sử dụng một phương pháp tương tự như một quy tắc hay một tiêu chuẩn chung và có sự áp dụng theo định hướng liên quan đến cách tính tỷ lệ biên độ phá giá chung, đặc biệt đối với việc sử dụng các lập luận sẵn có. Do đó, Ban hội thẩm đã bác bỏ lập luận của Việt Nam khi cáo buộc rằng biện pháp này là không phù hợp với các Điều 6.8, 9.4 và Phụ lục II của Hiệp định chống bán phá giá. Tuy nhiên Ban hội thẩm cho rằng tỷ lệ biên độ chống bán phá giá chung áp dụng cho Việt Nam và các công ty Việt Nam trong những đợt rà soát hành chính là không phù hợp với Điều 9.4. Ban hội thẩm cũng bác bỏ lập luận của Việt Nam rằng tỷ lệ trên vi phạm Điều 6.8 và Phụ lục II.

Khiếu nại liên quan đến mục 129 (c) (1) của URAA

Ban hội thẩm kết luận rằng Việt Nam đã thất bại trong việc chứng minh các lập luận của mình là căn cứ theo sự thực, trong đó cho rằng mục 129 (c) (1) của URAA đã giúp chính quyền Mỹ trì hoãn việc thực hiện các khuyến nghị của DSB đối với bút toán không được định trước. Trong trường hợp trên, Ban hội thẩm bác bỏ cáo buộc của Việt Nam đối với quy định này của luật pháp Hoa Kỳ.

Các khiếu nại đối với quyết định của USDOC trong rà soát cuối kỳ

Khi đánh giá các khiếu nại của Việt Nam đối với quyết định của USDOC trong vấn đề rà soát cuối kỳ, Ban hội thẩm đã đồng ý với kết luận của các Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm trong các vụ tranh chấp trước đó rằng cơ quan điều tra nên căn cứ trên các biên độ phá giá khi quyết định một trường hợp có khả năng bán phá giá hay không, và việc tính toán những biên độ phá giá này phải phù hợp với nguyên tắc của các hiệp định đã ký kết hoặc không vi phạm Điều 11.3. Ban hội thẩm cho rằng khi đưa ra quyết định một trường hợp có khả năng là bán phá giá, USDOC đã dựa trên một số biên độ phá giá được xác định là trái với quy định của Hiệp định Chống bán phá giá và GATT 1994, đặc biệt là biên độ phá giá với từng trường hợp cụ thể được tính bằng phương pháp quy về không và tỷ lệ biên độ chống bán phá giá chung cho tất cả các doanh nghiệp của Việt Nam. Ban hội thẩm kết luận rằng việc DOC dựa trên những biên độ phá giá không thống nhất trong các quy định của WTO để xác định một trường hợp có khả năng bán phá giá, là trái với Điều 11.3.

Yêu cầu hủy bỏ thuế chống bán phá giá đối với một số công ty cụ thể

Khi xem xét yêu cầu hủy bỏ thuế chống bán phá giá đối với một số công ty cụ thể của Việt Nam, Ban hội thẩm lưu ý rằng Điều 11.2 buộc các cơ quan chức năng phải có nghĩa vụ tiến hành rà soát lại sự cần thiết đối với việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá trong trường hợp: (i) nhận được yêu cầu từ một bên liên quan; (ii) sau khi đã hết một khoảng thời gian hợp lý; (iii) yêu cầu cơ quan điều tra xem xét một trong ba vấn đề được quy định tại dòng 2 Điều 11.2; và (iv) yêu cầu kèm với thông tin xác thực chứng minh cần có sự rà soát lại.

Ban hội thẩm cho rằng những yêu cầu của các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam trong đợt rà soát hành chính lần thứ tư và thứ năm đã thoả mãn được các điều kiện trên, nhưng USDOC lại quyết định không thu hồi phán quyết và cũng không thực hiện bất kỳ việc xem xét cần thiết nào đối với việc tiếp tục áp thuế chống bán phá giá; và do đó các nhà sản xuất và xuất khẩu đã có đơn yêu cầu thu hồi phán quyết áp thuế chống bán phá giá khi không được kiểm tra riêng lẻ trong rà soát hành chính. Trên cơ sở đó, Ban hội thẩm đã giữ nguyên khiếu nại của Việt Nam khi cho rằng cách DOC giải quyết các yêu cầu thu hồi thuế chống bán phá giá của các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam là trái với quy định của Điều 11.2.

Ban hội thẩm cũng xem xét sâu hơn đối với vấn đề nếu một cơ quan lựa chọn dựa vào các biên độ phá giá được xác định trong tương lai theo Điều 11.2, thì cách xác định biên độ phá giá đó phải nhất quán với nguyên tắc của các hiệp định. Theo đó, trong quá trình tố tụng, USDOC đã dựa vào biên độ phá giá được tính bằng phương pháp quy về không khi xem xét yêu cầu thu hồi lệnh áp thuế chống bán phá giá, do vậy Ban hội thẩm giữ nguyên khiếu nại của phía Việt Nam đối với cách giải quyết của USDOC trước những yêu cầu từ Việt Nam.

Ngày 06/01/2015, Việt Nam đã thông báo cho DSB về quyết định kháng cáo lên Cơ quan Phúc thẩm một số vấn đề về pháp luật và sự giải thích luật pháp trong báo cáo của Ban hội thẩm.

Ngày 03/3/2015, DOC đã công bố kết quả sơ bộ đợt rà soát hành chính lần thứ 9 đối với sản phẩm tôm của Việt Nam, theo đó thuế chống bán phá giá cho khoảng thời gian từ 02/1/2013 đến 31/01/2014, với mức thuế trung bình xuống dưới 1%, giảm hơn 5 điểm phần trăm so với đợt rà soát hành chính lần thứ 8.