Giải quyết tranh chấp số DS299

03/02/2010    324

EC – Các biện pháp đối kháng đối với mặt hàng Thẻ nhớ chip truy cập ngẫu nhiên nhập khẩu từ Hàn Quốc.

Tiêu đề:

EC – Các biện pháp đối kháng với thẻ nhớ chip truy cập ngẫu nhiên

Nguyên đơn:

Hàn Quốc

Bị đơn:

EC

Các bên thứ ba:

Đài Loan, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc

Các hiệp định liên quan (được đưa ra trong yêu cầu tham vấn)

Hiệp định về các biện pháp tự vệ và đối kháng: Điều 1, 2,10, 11, 12, 14, 15, 17, 19, 22, 32, 32.1; GATT 1994: Điều VI:3, X:3

Ngày nhận được yêu cầu tham vấn:

25 tháng 07 năm 2003

Báo cáo Ban Hội thẩm ban hành ngày:

17 tháng 06 năm 2005

Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện:

Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện tới ngày 24 tháng 02 năm 2010

Thông qua báo cáo của Cơ quan phúc thẩm và báo cáo của Ban hội thẩm

Do Hàn Quốc khởi kiện.

Ngày 25 tháng 07 năm 2003, Hàn Quốc yêu cầu tham vấn với EC về việc EC áp đặt các biện pháp đối kháng tạm thời và các biện pháp đối kháng cuối cùng có thể chính thức thông qua áp dụng cuối năm nay đối với mặt hàng thẻ nhớ truy cập ngẫu nhiên (DRAMs) từ Hàn Quốc.

Theo Hàn Quốc, khi xem xét các phán quyết của EC liên quan tới các biện pháp đối kháng tạm thời đã thông qua áp dụng và các biện pháp đối kháng cuối cùng có thể thông qua áp dụng cuối năm nay đối với DRAMs nhập khẩu từ Hàn Quốc, EC đã không tuân thủ qui định về thủ tục và quyền hạn theo WTO khi chứng minh sự tồn tại của trợ cấp tài chính và những lợi ích liên quan đồng thời nêu không rõ đặc điểm của các biện pháp trợ cấp này.

Theo quan điểm của Hàn Quốc, các biện pháp này của EC không phù hợp với nghĩa vụ theo WTO trong các điều khoản sau:

Điều khoản VI:3 và X.3 của GATT 1994

Các điều khoản 1, 2, 10, 11, 12, 14, 15, 17, 22 và 32.1 của Hiệp định về các biện pháp trợ cấp và đối kháng.

Ngày 25 tháng 08 năm 2003, Hàn Quốc yêu cầu tiếp tục tham vấn với EC về các biện pháp đối kháng cuối cùng EC thông qua ngày 11 tháng 08 năm 2003, được công bố trên Công báo chính thức của EC ngày 22 tháng 08 năm 2003.

Hàn Quốc muốn tham vấn các vấn đề tương tự đã nêu trong yêu cầu tham vấn trước nhưng từ các khía cạnh tiếp cận khác đối với các biện pháp cuối cùng được thông qua.

Hàn Quốc buộc tội EC vi phạm điều khoản 15 của Hiệp định SCM. Hàn Quốc khẳng định rằng những thiệt hại đáng kể do EC kết luận không phù hợp với các điều khoản 15.1, 15.2, 15.4, và 15.5 của Hiệp định SCM, không kể các điều khoản khác.

Ngày 19 tháng 11 năm 2003, Hàn Quốc yêu cầu thành lập Ban hội thẩm. Tại cuộc họp ngày 01 tháng 12 năm 2003, DSB trì hoãn việc thành lập Ban hội thẩm. Theo yêu cầu lần thứ 2 của nước này, ngày 23 năm 01 năm 2004 DSB thành lập Ban hội thẩm. Trung Quốc, Đài Loan, Nhật bản và Mỹ tham dự với tư cách là bên thứ 3.

Ngày 24 tháng 03 năm 2004, xác định cơ cấu của Ban hội thẩm. Do chủ tịch trước từ chức ngày 22 tháng 06 năm 2004, DSB bổ nhiệm chủ tịch mới cho Ban ngày 27 tháng 06 năm 2004.

Ngày 17 tháng 06 năm 2005, Ban hội thẩm ban hành báo cáo tới các thành viên. Báo cáo kết luận:

Ban Hội thẩm bác bỏ hầu hết các khiếu nại của Hàn Quốc về vấn đề liên quan tới trợ cấp và cho rằng ba trong số năm chương trình EC xác định có trợ cấp tài chính và lợi ích liên quan là phù hợp với Hiệp định SCM. Ban hội thẩm tán thành khiếu nại của Hàn Quốc liên quan đến “phương pháp trợ cấp” mà EC áp dụng trong tính toán mức độ lợi ích là không phù hợp với Hiệp định SCM.

Liên quan đến kết luận thiệt hại, Ban hội thẩm cũng bác bỏ hầu hết khiếu nại của Hàn Quốc. Tuy nhiên, Ban hội thẩm tán thành khiếu nại của Hàn Quốc về việc EC không thẩm tra nhân tố lương, một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới ngành sản xuất trong nước. Liên quan đến việc phân tích kết quả điều tra, Ban hội thẩm cũng cho rằng EC đã không tuân thủ các qui định trong việc không tính đến các thiệt hại gây ra bởi các nhân tố khác ngoài nhân tố hàng nhâp khẩu được trợ cấp.

Tại cuộc họp ngày 03 tháng 08 năm 2005, DSB thông qua báo cáo của Ban hội thẩm.

Tình trạng thực thi các báo cáo đã thông qua

Tại cuộc họp ngày 31 tháng 08 năm 2005 của DSB, EC đã thông báo thiện chí tuân thủ hoàn toàn các khuyến nghị và phán quyết của DSB trong vụ kiện này. Ngày 12 tháng 10 năm 2005, các bên thông báo nhất trí với phán quyết của DSB, theo điều khoản 21.3 (b) của DSU về khoảng thời gian hợp lý cho EC thực hiện các khuyến nghị và phán quyết trên là 8 tháng, hạn cuối cùng là ngày 03 tháng 04 năm 2006.

Tại cuộc họp ngày 21 tháng 04 năm 2006, EC tuyên bố đã thực hiện đầy đủ các khuyến nghị và phán quyết của DSB bằng việc thông qua một quy định mới có hiệu lực ngày 13 tháng 04 năm 2006. Hàn Quốc không tán thành và cho rằng EC đã không thực hiện đầy đủ các khuyến nghị và phán quyết này.