Giải quyết Tranh chấp số DS048

24/09/2010    2492

Cộng đồng châu Âu — Các biện pháp liên quan đến thịt và các sản phẩm từ thịt (Hoóc-môn)

Thông báo đang trong quá trình tuân thủ ngày 10/02/2009

Tiêu đề:

EC — Hoóc môn ( Canada)

Nguyên đơn

Canada

Bị đơn:

Cộng đồng châu Âu

Bên thứ 3:

Australia ; New Zealand; Na Uy; Mỹ

Các hiệp định được viện dấn: (tại yêu cầu tham vấn)

Hiệp định các Biện pháp Kiểm dịch động thực vật (SPS): Điều 3, 5, 2;

Hiệp định Nông nghiệp: Điều 4;

Hiệp định Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT): Điều 5, 2;

GATT 1994: Điều III, XI

Yêu cầu tham vấn ngày:

28 tháng 7 năm 1996

Báo cáo của Ban Hội thẩm ban hành ngày:

18 tháng 8 năm 1997

Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm ban hành ngày:

16 tháng 1 năm 1998

Báo cáo của Cơ quan Trọng tài theo điều 21.3(c) được ban hành:

29 tháng 5 năm 1998

Báo cáo của Cơ quan Trọng tài theo điều 22.6 được ban hành:

12 tháng 7 năm 1999

Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện 

Bản tóm tắt dưới đây được cập nhật tới ngày 24 tháng 02 năm 2010

Thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm

Do Canada khởi kiện.

Ngày 28 tháng 6 năm 1996, Canada yêu cầu tham vấn với EC về việc nhập khẩu thú nuôi (livestock) và thịt của thú nuôi được nuôi bằng một số chất có tác động tới hoóc môn theo Điều khoản XXII của GATT và điều khoản tương ứng của Hiệp định SPS, Hiệp định TBT và Hiệp định về Nông nghiệp. Canada cáo buộc EC đã vi phạm các Điều khoản 2, 3 và 5 của Hiệp định SPS, Điều III hoặc XI của GATT; Điều 2 của Hiệp định TBT và Điều 4 của Hiệp định về Nông nghiệp. Cáo buộc của Canada về bản chất là tương tự như cáo buộc của Mỹ (trong vụ kiện số WT/DS26) mà Ban Hội thẩm đã được thành lập trước đó.

Ngày 16 tháng 9 năm 1996, Canada yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Trong cuộc họp ngày 27 tháng 9 năm 1996, DSB trì hoãn việc thành lập này. Ngày 16 tháng 10 năm 1996, sau khi Canada có yêu cầu lần thứ 2, DSB quyết định thành lập Ban Hội thẩm. Ngày 4 tháng 10 năm 1996, cơ cấu Ban Hội thẩm được hoàn thiện. Báo cáo cua Ban Hội thẩm được ban hành ngày 18 tháng 8 năm 1997. Theo đó, Ban Hội thẩm phán quyết rằng các biện pháp cấm nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt thú nuôi được nuôi bằng 1 trong 6 loại hoóc môn kích thích tăng trưởng của EC là không phù hợp với Điều 3.1, 5.1 và 5.5 của Hiệp định SPS.

Ngày 24 tháng 9 năm 1997, EC thông báo ý định kháng cáo một số vấn đề về luật và diễn giải pháp lý trong báo cáo của Ban Hội thẩm. Cơ quan Phúc thẩm đã xem xét lại kháng cáo này cũng với kháng cáo trong vụ kiện WT/DS26. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành ngày 16 tháng 1 năm 1998. Theo đó, Cơ quan Phúc thẩm tán thành các phán quyết của Ban Hội thẩm rằng biện pháp của EC là không phù hợp với Điều 3.3 và 5.1 của Hiệp định SPS, tuy nhiên hủy bỏ phán quyết của Ban Hội thẩm rằng biện pháp cấm nhập khẩu của EC không phù hợp với Điều 3.1 và 5.5 của SPS. Liên quan tới các vấn đề chung và mang tính thủ tục, Cơ quan Phúc thẩm tán thành đa số các phán quyết và kết luận của Ban Hội thẩm, ngoại trừ về trách nhiệm chứng minh (burden of proof) trong tố tụng theo Hiệp định SPS.

Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm (đã sửa đổi bởi Cơ quan Phúc thẩm) được DSB thông qua ngày 13 tháng 2 năm 1998.

Tiến trình thực thi các báo cáo đã được thông qua

Do Mỹ và Canada khởi kiện.

Ngày 8 tháng 4 năm 1998, phía nguyên đơn yêu cầu rằng “khoảng thời gian hợp lý” để thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB phải được xác định mang tính bắt buộc bởi cơ quan Trọng tài, theo điều 21.3(c) của DSU. Cơ quan trọng tài đã xác định khoảng thời gian hợp lý đó là 15 tháng kể từ ngày thông qua báo cáo (tức 15 tháng kể từ ngày 13 tháng 2 năm 1998). Báo cáo của Cơ quan trọng tài được ban hành ngày 29 tháng 5 năm 1998.

Thời hạn thực thi được cơ quan trọng tài xác định là 15 tháng kể từ ngày thông qua các báo cáo, tức sẽ hết hạn vào ngày 13 tháng 5 năm 1999. Cộng đồng châu Âu – EC cam kết sẽ tuân thủ theo các khuyến nghị của DSB trong thời hạn trên. Tuy nhiên, trong cuộc hop của DSB ngày 28 tháng 4 năm 1999, EC thông báo lên DSB rằng họ sẽ xem xét nộp phạt do có khả năng rằng EC không thể hoàn thành việc tuân thủ các khuyến nghị và phán quyết của DSB trước thời hạn cuối 13 tháng 5 năm 1999.

Ngày 3 tháng 6 năm 1999, căn cứ theo Điều 22.2 của DSU, Mỹ và Canada yêu cầu DSB phê chuẩn việc đình chỉ nhượng bộ thuế quan (suspension of concessions) đối với EC với giá trị tương ứng là 202 triệu đôla Mỹ và 75 triệu đôla Canada. Căn cứ theo Điều 22.6 của DSU, EC đề nghị cơ quan trọng tài xem xét định mức đình chỉ nhượng bộ mà Mỹ và Canada yêu cầu. DSB đã giao lại vấn đề này cho Ban Hội thẩm ban đầu làm trọng tài.

Cơ quan Trọng tài xác định mức thiệt hại của Mỹ là 116,8 triệu đôla Mỹ và của Canada là 11,3 triệu đôla Canada. Báo cáo của cơ quan Trọng tài được ban hành ngày 12 tháng 7 năm 1999. Trong cuộc họp ngày 26 tháng 7 năm 1999, DSU phê chuẩn mức đình chỉ nhượng bộ thuế quan đối với EC của Mỹ và Canada theo giá trị được xác định bởi cơ quan trọng tài, tương ứng với mức độ thiệt hại của 2 nước này.

Trong cuộc họp của DSB ngày 7 tháng 11 năm 2003, EC tuyên bố rằng sau khi Chỉ thị mới (2003/74/EC) về việc cấm sử dụng một số loại hoóc-môn trong chăn nuôi có hiệu lực, sẽ không còn căn cứ pháp lý nào cho việc tiếp tục áp dụng các biện pháp trả đũa của Canada và Mỹ; một trong những lý do được dẫn ra trong phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm đối với EC là việc EC đã không tiến hành một sự đánh giá rủi ro theo điều 5.1 và 5.2 Hiệp định SPS; và, bằng việc ủy quyền cho một hội đồng khoa học độc lập đại diện cho EC tiến hành việc đánh giá, mà các kết quả đạt được chỉ ra rằng những hoóc môn này có gây nguy hiểm cho người tiêu dùng, EC đã hoàn thành các nghĩa vụ WTO của mình và có quyền yêu cầu dỡ bỏ ngay lập tức các biện pháp trừng phạt của Canada và Mỹ theo Điều 22.8 của DSU. Mỹ tuyên bố rằng nước này đã xem xét kỹ Chỉ thị mới của EC và không đồng quan điểm rằng EC đã thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Biện pháp mới này thiếu một cơ sở khoa học, cũng như không thể được chấp thuận theo Hiệp định SPS. Trái ngược với tuyên bố của EC, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng thịt động vật được nuôi bằng hoóc-môn kích thích tăng trưởng không gây ra rủi ro sức khỏe cho người tiêu dùng. Trong trường hợp này, Mỹ không chấp nhận yêu cầu của EC. Canada tuyên bố rằng trong khi nước này chuẩn bị thảo luận kỹ hơn vấn đề này với EC, họ nghi ngờ rằng liệu các nghiên cứu mới này có đưa ra được một cơ sở khoa học nào mới cho việc cấm thịt bò nuôi bằng hoóc-môn, đồng thời cũng không chấp thuận yêu cầu của EC. EC phản hồi rằng trên cơ sở các quan điểm phản đối của Mỹ và Canada, có thể dẫn tới những động thái thích hợp cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của EC theo các hiệp định WTO.

Trong cuộc họp của DSB ngày 1 tháng 12 năm 2003, EC tuyên bố rằng: do sự bất đồng giữa các bên tranh chấp liên quan tới sự tuân thủ của EC với các khuyến nghị của DSB, vấn đề này cần có một quyết định đa phương của WTO; trường hợp này tương tự như các vụ việc khác trong quá khứ đã được giải quyết thông qua cầu viện điều 21.5 của DSU; Canada và Mỹ nên bắt đầu các thủ tục đa phương nhằm xác định xem liệu EC đã tuân thủ đúng hay chưa; EC đã sẵn sàng thảo luận vấn đề này với Canada và Mỹ. Canada tuyên bố rằng, mặc dù tại cuộc họp của DSB ngày 7 tháng 11, Canada đã đề xuất các cuộc thảo luận song phương về việc chứng minh quan điểm của EC về tính tuân thủ các quy định WTO, song EC đã không phản hồi lại đề xuất này; Canada vẫn tiếp tục mở các cuộc thảo luận với EC liên quan tới việc chứng minh quan điểm của họ; trong giai đoạn này, Canada không nhận thấy bất cứ cơ sở nào cho việc dỡ bỏ các biện pháp trả đũa của mình cũng như tiến hành thêm các hành động khác. Mỹ thì tuyên bố rằng: Mỹ không nhìn nhận các biện pháp sửa đổi của EC có thể được coi là thực thi khuyến nghị của DSB; về đề xuất của EC thiết lập các tiến trình đa phương nhằm xác định liệu EC đã tuân thủ các quy định WTO hay chưa, Mỹ sẵn sàng thảo luận vấn đề này cùng với các vấn đề đáng chú ý khác liên quan tới lệnh cấm thịt bò Mỹ của EC.

Ngày 22 tháng 12 năm 2008, EC yêu cầu tham vấn với Mỹ và Canada theo điều 21.5 của DSU. Ngày 16 tháng 1 năm 2009, Mỹ đề nghị được tham gia cuộc tham vấn do Canada yêu cầu. Ngày 19 tháng 1 năm 2009, Canada đề nghị được tham gia cuộc tham vấn Mỹ yêu cầu.