Giải quyết Tranh chấp số DS046
23/09/2010 2052Brazil — Chương trình cấp vốn xuất khẩu máy bay
Kết luận hoàn toàn tuân thủ ngày 23/08/2001
Tiêu đề: | Brazil — Máy bay |
Nguyên đơn | Canada |
Bị đơn | Brazil |
Bên thứ 3: | Australia ; Cộng đồng châu Âu; Hàn Quốc; Mỹ |
Các hiệp định được viện dẫn: (tại yêu cầu tham vấn) | Hiệp định về các Biện pháp Kiểm dịch Động thực vật: Điều 3, 27, 27.4, 27.5; GATT 1994: Điều XVI |
Yêu cầu tham vấn ngày: | 19 tháng 6 năm 1996 |
Báo cáo của Ban Hội thẩm được ban hành: | 14 tháng 4 năm 1999 |
Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành: | 2 tháng 8 năm 1999 |
Báo cáo của Ban Hội thẩm theo Điều 21.5 được ban hành: | 9 tháng 5 năm 2000 |
Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm theo Điều 21.5 được ban hành: | 21 tháng 7 năm 2000 |
Báo cáo của cơ quan Trọng tài viện tới Điều khoản 22.6 được ban hành: | 28 tháng 8 năm 2000 |
Báo cáo của Ban Hội thẩm viện tới điều 21.5 lần 2 được ban hành: | 26 tháng 7 năm 2001 |
Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện:
Bản tóm tắt cập nhật vụ kiện tới ngày 24 tháng 02 năm 2010
Thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm
Do Canada khởi kiện.
Ngày 19 tháng 6 năm 1996, Canada yêu cầu tham vấn với Brazil dựa trên Điều 4 của Hiệp định Trợ cấp, quy định các thủ tục đặc biệt đối với trợ cấp xuất khẩu. Canada cho rằng các khoản trợ cấp xuất khẩu theo Chương trình Tài trợ Xuất khẩu (PROEX) của Brazil dành cho những khách hàng nước ngoài của Hãng máy bay Embraer là không phù hợp với Điều 3, 27.4 và 27.5 của Hiệp định Trợ cấp.
Ngày 16 tháng 9 năm 1996, Canada yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm, với cáo buộc rằng Brazil đã vi vi phạm Hiệp định Trợ cấp và GATT 1994. Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) đã xem xét yêu cầu này trong cuộc họp ngày 27 tháng 9 năm 1996. Do sự phản đối của Brazil nên Canada đồng ý sửa đổi yêu cầu của nước này, giới hạn phạm vi cáo buộc chỉ trong Hiệp định về Trợ cấp. Yêu cầu đã sửa đổi của Canada được nộp lên ngày 3 tháng 10 năm 1996 nhưng sau đó đã bị rút lại ngay trước thềm một cuộc họp của DSB dự kiến sẽ xem xét yêu cầu này.
Ngày 10 tháng 7 năm 1998, Canada tái yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Trong cuộc họp ngày 23 tháng 7 năm 1998, DSB ra quyết định thành lập Ban Hội thẩm. Cộng đồng châu Âu và Mỹ tham gia với tư cách bên thứ 3. Ngày 16 tháng 10 năm 1998, Canada đề nghị Tổng giám đốc WTO xác định cơ cấu của Ban Hội thẩm. Ngày 22 tháng 10 năm 1998, cơ cấu của Ban được xác định. Báo cáo của Ban Hội thẩm được ban hành ngày 14 tháng 9 năm 1999. Theo đó, Ban Hội thẩm kết luận rằng các biện pháp của Brazil là không phù hợp với Điều 3.1(a) và 27.4 của Hiệp định về Trợ cấp.
Ngày 3 tháng 5 năm 1999, Brazil tuyên bố ý định kháng cáo một số vấn đề về luật và diễn giải pháp lý trong báo cáo của Ban Hội thẩm. Bản báo báo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành ngày 2 tháng 8 năm 1999. Trong đó, Cơ quan Phúc thẩm tán thành tất cả các phán quyết của Ban Hội thẩm, tuy nhiên hủy bỏ và sửa đổi cách diễn giải của Ban về cụm từ “lợi thế vật chất” (material advantage) tại mục (k) của Danh sách minh họa về Trợ cấp xuất khẩu trong Phụ lục I – Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM).
Ngày 20 tháng 8 năm 1999, DSB thông qua hai báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm (đã được sửa đổi).
Thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm & Ban Hội thẩm tuân thủ theo Điều khoản 21.5
Ngày 23 tháng 11 năm 1999, Canada yêu cầu thành lập một Ban hội thẩm theo Điều 21.5 của Quy tắc giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU) để xem xét việc Brazil đã không tiến hành các biện pháp nhằm tuân thủ đầy đủ các phán quyết và khuyến nghị của DSB. Canada và Brazil đã đạt được một thỏa thuận về các thủ tục có thể được áp dụng theo Điều 21 và 22 của DSU và Điều 4 của Hiệp định về Trợ cấp. Tại cuộc họp ngày 9 tháng 12 năm 1999, DSB đồng ý tái triệu tập Ban hội thẩm ban đầu theo Điều 21.5 của DSU. Australia, EC và Mỹ giữ tư cách bên thứ 3. Ngày 17 tháng 12 năm 1999, cơ cấu Ban Hội thẩm tuân thủ (compliance panel) được xác định.
Báo cáo của Ban Hội thẩm tuân thủ được ban hành ngày 9 tháng 5 năm 2000. Theo đó, Ban kết luận rằng các biện pháp của Brazil nhằm tuân thủ các khuyến nghị và phán quyết của DSB là không hề tồn tại hoặc không phù hợp với Hiệp định về Trợ cấp. Trong quá trình đi tới kết luận này, đáng chú ý là Ban Hội thẩm đã bác bỏ biện hộ của Brazil rằng các khoản chi PROEX là được phép theo điểm (k) – phụ lục I của Hiệp định về Trợ cấp, thêm vào đó, nếu một thành viên WTO tiến hành một trợ cấp thông qua tín dụng xuất khẩu mà không phù hợp với Hiệp định SCM thi việc bị kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp củaWTO là hợp lý.
Ngày 22 tháng 5 năm 2000, Brazil thông báo ý định kháng cáo một số vấn đề về luật và diễn giải pháp lý trong báo cáo xét lại của Ban Hội thẩm. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành ngày 21 tháng 7 năm 2000. Theo đó, Cơ quan Phúc thẩm tán thành phần lớn các kết luận xét lại của Ban hội thẩm rằng Brazil đã không thực hiện theo khuyến nghị của DSB do hoạt động phát hành tiếp các trái phiếu NTN-I, sau ngày 18 tháng 11 năm 1999, theo các thư cam kết ban hành trước ngày 18 tháng 11 năm 1999. Cơ quan Phúc thẩm cũng tán thành phán quyết của Ban Hội thẩm rằng các khoản chi được thực hiện trong chương trình PROEX sửa đổi đã bị cấm bởi Điều 3 Hiệp định về Trợ cấp và cũng không được cho phép trong điểm (k) của Danh sách minh họa của Hiệp định này. Do đó, Cơ quan Phúc thẩm tán thành kết luận của Ban Hội thẩm rằng Brazil đã không thực thi theo các khuyến nghị của DSB. Trong cuộc họp ngày 4 tháng 8 năm 2000, DSB đã thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và báo cáo sửa đổi của Ban Hội thẩm.
Ngày 22 tháng 1 năm 2001, Canada yêu cầu DSB giao vụ việc này lại cho Ban Hội thẩm ban đầu một lần nữa, căn cứ theo điều 21.5 của DSU. Trong cuộc họp ngày 16 tháng 2 năm 2001, DSB đã chuyển giao vụ việc này cho Ban Hội thẩm ban đầu. Australia, EC và Hàn Quốc giữ tư cách bên thứ 3. Báo cáo của Ban Hội thẩm được ban hành ngày 26 tháng 7 năm 2001. Ban Hội thẩm kết luận như sau:
- Chưa xác định rằng Chương trình PROEX III là không phù hợp với Điều 3.1(a) của Hiệp định SCM
- Chương trình PROEX III được chứng nhận là phù hợp theo đoạn 2 của mục (k) của Danh sách minh họa về Trợ cấp xuất khẩu – Phụ lục I – Hiệp định SCM
- Không thể xác minh được PROEX III là phù hợp theo đoạn 1 của mục trên
Trong cuộc họp ngày 23 tháng 8 năm 2001, DSB thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm (lần thứ 2) theo Điều 21.5 của DSU.
Tiến trình thực thi các báo cáo đã được thông qua
Tại cuộc họp của DSB ngày 19 tháng 11 năm 1999, Brazil thông báo rằng nước này đã hủy bỏ các biện pháp gây tranh chấp trong vòng 90 ngày và do đó đã thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB.
Ngày 23 tháng 11 năm 1999, Canada yêu cầu thành lập một Ban hội thẩm theo Điều 21.5 của DSU và đề nghị Ban hội thẩm xác định rằng Brazil đã không tiến hành các biện pháp nhằm tuân thủ đầy đủ các phán quyết và khuyến nghị của DSB. Canada và Brazil đã đạt được một thỏa thuận về các thủ tục có thể được áp dụng theo Điều 21 và 22 của DSU và Điều 4 của Hiệp định về Trợ cấp. Tại cuộc họp ngày 9 tháng 12 năm 1999, DSB đồng ý tái triệu tập Ban hội thẩm ban đầu theo Điều 21.5 của DSU. Báo cáo của Ban Hội thẩm được ban hành ngày 9 tháng 5 năm 2000.
Xem chi tiết quá trình Hội thẩm theo điều 21.5 và Phúc thẩm ở trên.
Ngày 10 tháng 5, Canada đề nghị DSB phê chuẩn cho phép nước này tiến hành các biện pháp đối kháng thích hợp ở mức 700 triệu đôla Canada mỗi năm, chiểu theo Điều 4.10 của Hiệp định Trợ cấp và Điều 22.2 của DSU.
Trong cuộc họp DSB ngày 22 tháng 5 năm 2000, theo Điều 22.6 của DSU và Điều 4.11 của Hiệp định Trợ cấp, Brazil yêu cầu cơ quan trọng tài xác định xem liệu các biện pháp đối kháng của Canada có phù hợp hay không. DSB đã chuyển giao vấn đề lại cho ban trọng tài ban đầu, điều này được hiểu là sẽ không có biện pháp đối kháng nào được tiến hành trong thời gian chờ đợi báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và cho tới sau khi có báo cáo của cơ quan trọng tài.
Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành tới các thành viên ngày 21 tháng 7 năm 2000.
Báo cáo của cơ quan Trọng tài được ban hành ngày 28 tháng 8 năm 2000. Theo đó, cơ quan Trọng tài phán quyết rằng các biện pháp đối kháng thích hợp trong trường hợp này có giá trị tới 344,2 triệu đôla Canada.Cơ quạn Trọng tài cũng xác định rằng Canada có thể yêu cầu DSB phê chuẩn để đình chỉ các nhượng bộ thuế quan (tariff concessions) hoặc nghĩa vụ khác đối với Brazil theo GATT 1994, Hiệp định về Hàng dệt may và Hiệp định về Cấp phép nhập khẩu. Tại cuộc họp của DSB ngày 12 tháng 12 năm 2000, căn cứ theo Điều 22.7 của DSU và Điều 4.10 của Hiệp định SCM, Canada đã nhận được sự phê chuẩn của DSB để đình chỉ việc áp dụng với Brazil các nhượng bộ thuế quan và các nghĩa vụ khác theo GATT 1994, Hiệp định Hàng dệt may và Hiệp định Cấp phép nhập khẩu với giá trị kim ngạch tối đa là 344,2 triệu đôla Canada. Ngày 12 tháng 12 năm 2000, Brazil thông báo DSB về các thay đổi của nước này đối với các biện pháp gây tranh cãi và tuyên bố rằng PROEX đã được điều chỉnh để phù hợp với các nghĩa vụ của Brazil theo Hiệp định SCM. Canada vẫn giữ quan điểm rằng Brazil tiếp tục vi phạm các nghĩa vụ theo SCM của nước này. Theo Canada, có bất đồng giữa Canada và Brazil về việc liệu các biện pháp của Brazil nhằm tuân theo khuyến nghị và phán quyết của DSB ngày 20/08/1999 và 04/08/2000 có giúp nước này tuân thủ các điều khoản của Hiệp định SCM và dẫn đến việc thu hồi các khoản trợ cấp xuất khẩu dành cho máy bay tầm khu vực trong chương trình PROEX hay không.
Ngày 22 tháng 1 năm 2001, Canada yêu cầu DSB, một lần nữa, giao vấn đề này lại cho Ban Hội thẩm ban đầu, căn cứ theo Điều 21. 5 của DSU. Tại cuộc họp ngày 16 tháng 2 năm 2001, DSB giao vấn đề này lại cho Ban Hội thẩm ban đầu, Australia, EC và Hàn Quốc giữ tư cách bên thứ 3.
Chi tiết về quá trình tố tụng lần thứ hai của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm theo điều 21.5, xem phần trên.