Tin tức

Thực trạng thực thi cam kết về môi trường trong các Hiệp định EVFTA

04/12/2023    1421

Tham gia ký kết Hiệp định CPTPP và EVFTA, Việt Nam luôn kiên trì theo định hướng phát triển bền vững, xây dựng và đẩy mạnh phát triển kinh tế tuần hoàn, xây dựng nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.

So với các FTA giai đoạn đầu, Hiệp định CPTPP và EVFTA là các FTA có mức độ cam kết về môi trường sâu rộng và chi tiết hơn.

EVFTA (European-Vietnam Free Trade Agreement) là Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam, chính thức có hiệu lực từ ngày 01/8/2020; từ đó, mở ra những cơ hội và triển vọng mới trong quan hệ đối tác hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU).

“Các mục tiêu của Hiệp định này là tự do hóa và tạo thuận lợi thương mại và đầu tư giữa các Bên phù hợp với các quy định của Hiệp định này” (Điều 1.2 Chương 1).

Cùng với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định EVFTA là hai FTA có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay.

Hiệp định CPTPP và EVFTA là Hiệp định có mức độ cam kết sâu, rộng, liên quan tới nhiều vấn đề bên cạnh các lợi ích về kinh tế; trong đó khẳng định sự cam kết và đồng thuận của các bên trong việc bảo đảm thực thi các cam kết về môi trường và bảo đảm phát triển bền vững.

Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tập trung phân tích về thực trạng thực thi các cam kết về môi trường trong các Hiệp định tự do thế hệ mới của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Các cam kết về môi trường trong các Hiệp định tự do thế hệ mới của doanh nghiệp Việt Nam

So với các FTA giai đoạn đầu, Hiệp định CPTPP và EVFTA là các FTA có mức độ cam kết về môi trường sâu rộng và chi tiết hơn.

Trong các FTA giai đoạn đầu, các vấn đề môi trường mới chỉ được đề cập mang tính khái quát chung, nhưng ở giai đoạn sau này, các FTA thế hệ mới và tiêu chuẩn cao như CPTPP và EVFTA đã tạo lập một khuôn khổ mới liên quan đến các nội dung về môi trường mà Việt Nam đã cam kết nhằm ràng buộc nghĩa vụ về bảo vệ môi trường của các bên ở mức độ cao hơn.

Cả hai Hiệp định đều dành một chương riêng quy định về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, đó là Chương 20 về Môi trường của CPTPP với 81 khoản, 02 phụ lục, và Chương 13 về thương mại và phát triển bền vững của EVFTA với 41 khoản.

Các cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP

Các nội dung chính về bảo vệ môi trường tại chương 20 Hiệp định CPTPP có thể tóm tắt thành 4 nội dung cơ bản bao gồm:

- Nhóm 1: Các điều khoản chung liên quan đến các định nghĩa, mục tiêu và các tuyên bố chung của Hiệp định, gồm 3 có điều 1, 2 và 3;

- Nhóm 2: Các điều khoản liên quan đến các quy định về tính minh bạch và sự tham gia của công chúng, bao gồm 3 điều 7, 8 và 9;

- Nhóm 3: Các điều khoản liên quan đến các hoạt động tổ chức bộ máy, các cơ quan chịu trách nhiệm và cơ chế phối hợp thực hiện và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại và làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan giữa các bên tham gia, gồm 6 điều 12, 19, 20, 21, 22 và 23;

- Nhóm 4: Gồm các điều khoản trực tiếp về các vấn đề môi trường: (1) Hàng hóa và dịch vụ môi trường; (2) Các hiệp định môi trường đa phương; (3) Bảo vệ tầng ô zôn; (4) Bảo vệ môi trường biển từ ô nhiễm do vận tải biển; (5) Thương mại và đa dạng sinh học; (6) Thương mại và bảo tồn (động thực vật hoang dã); (7) Các loài ngoại lai xâm lấn; (8) Chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp và tự cường; (9) Ngành Thủy sản đánh bắt cá trên biển; (10) Các cơ chế tự nguyện để thúc đẩy thực thi môi trường; (11) Hợp tác trách nhiệm xã hội.

So với các FTA đời đầu, Hiệp định CPTPP lần đầu tiên đã chính thức đưa 04 vấn đề mới nổi bật vào trong các cam kết thương mại đa phương mà Việt Nam tham gia, gồm: (1) Các cam kết về hàng hóa và dịch vụ môi trường; (2) Các cam kết về chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp; (3) Các vấn đề liên quan đến ô nhiễm đại dương và suy giảm nguồn tài nguyên thủy sản trên biển do hoạt động đánh bắt cá; (4) Thành lập Ủy ban môi trường, những vấn đề liên quan đến liên lạc quốc gia và cơ chế giải quyết các vấn đề thương mại - môi trường giữa các quốc gia.

Trên cơ sở đó, Hiệp định CPTPP đã xác định nhóm các cam kết mang tính chất hợp tác và nhóm các cam kết chuyên sâu giữa các Bên tham gia Hiệp định.

Theo đó, nhóm cam kết mang tinh chất hợp tác bao gồm cam kết về hợp tác tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa, dịch vụ có hỗ trợ, đóng góp cho việc thực hiện tăng trưởng xanh và nền kinh tế các bon thấp.

Nhóm các cam kết chuyên sâu bao gồm các nội dung về hạn chế ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên do các hoạt động thương mại. Nhóm này tập trung vào đa dạng sinh học, bảo tồn, cơ chế thực thi môi trường tự nguyện, bảo vệ tầng ô zôn, sinh vật ngoại lai.

Các cam kết về môi trường trong Hiệp định EVFTA

Hiệp định EVFTA gồm 17 Chương quy định các thỏa thuận giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU); trong đó Hiệp định đã dành riêng Chương 13 quy định về Thương mại và Phát triển bền vững (từ Điều 13.1 đến Điều 13.17).

Mục tiêu của Chương này là thúc đẩy phát triển bền vững, ghi nhận thông qua việc thúc đẩy sự đóng góp của các lĩnh vực liên quan đến thương mại và đầu tư lên các vấn đề lao động và môi trường.

Các cam kết và nghĩa vụ liên quan đến môi trường được thiết lập trong EVFTA nhằm tăng cường tính tương hỗ giữa chính sách về thương mại và môi trường, đảm bảo các hoạt động về thương mại, đầu tư sẽ không có tác động và ảnh hưởng tiêu cực tới các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Cụ thể:

Thứ nhất, khuyến khích mức độ bảo hộ cao đối với các lĩnh vực môi trường.

Điều 13.2. Chương 13 quy định về quyền điều chỉnh và mức độ bảo vệ đã quy định: EU và Việt Nam sẽ công nhận các quyền tương ứng, bao gồm thiết lập mức độ bảo hộ trong nước phù hợp, đặc biệt khuyến khích mức độ bảo hộ cao đối với lĩnh vực môi trường và xã hội nhằm tăng cường hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.

Tuy nhiên, cam kết của các quy định này mới chỉ dừng lại ở mức độ “khuyến khích”, “nỗ lực”, cho phép các Bên tự thiết lập chính sách và thực thi quy định về bảo vệ môi trường.

Đây cũng là cơ sở để quy định các nội dung có tính chất bắt buộc nhằm bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường trong mối quan hệ gắn kết với các lợi ích về phát triển kinh tế xã hội, từ đó cho phép các nhà đầu tư có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách khởi kiện khi cho rằng các chi phí thực hiện hoạt động bảo vệ môi trường ở nước sở tại chưa bảo đảm sự cân bằng với chi phí trong phát triển kinh tế hàng hóa.

Để bảo đảm thực hiện cam kết này, Hiệp định quy định các Bên không được phép hoặc cho phép các Bên được giảm nhẹ hoặc miễn trừ hiệu lực pháp lý của các quy định pháp luật về môi trường để khuyến khích hoạt động thương mại và đầu tư giữa các bên theo định hướng “phát triển bằng mọi giá”.

Đồng thời, không được phép áp dụng pháp luật môi trường theo cách thức gây ra sự phân biệt đối xử tùy tiện và vô lý giữa các Bên hoặc được sử dụng như một phương thức hạn chế thương mại trá hình (Điều 13.3.).

Thứ hai, ứng phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy thị trường các bon.

EVFTA yêu cầu các Bên phải bảo đảm thực hiện điều ước đa phương liên quan đến biến đổi khí hậu bao gồm: Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992 (UNFCCC), Nghị định thư Kyoto liên quan đến Công ước UNFCCC năm 1997, Hiệp định Paris năm 2015 và tích cực hợp tác để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải, thích ứng với khí hậu, phù hợp với Hiệp định Paris (Điều 13.6.1 EVFTA).

Thứ ba, bảo tồn đa dạng sinh học.

Bảo tồn đa dạng sinh học là một trong những nội dung trọng yếu của mảng pháp luật môi trường “màu xanh” – liên quan trực tiếp tới các vấn đề về bảo tồn và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Do đó, các Bên thừa nhận vai trò và tầm quan trọng của vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học theo các điều ước quốc tế đa phương cốt lõi về vấn đề này bao gồm: Công ước quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học năm 1992 (Công ước CBD năm 1992), Kế hoạch chiến lược về Đa dạng sinh học 2011-2020, Mục tiêu Đa dạng sinh học Aichi năm 2010, Công ước về Buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa năm 1973 (Công ước CITES) và các văn kiện quốc tế khác mà mình là thành viên.

Điều 13.17.2 EVFTA quy định các bên sẽ nỗ lực tạo điều kiện cho việc tiếp cận nguồn gen với mục đích đúng đắn và sẽ không áp dụng các hạn chế đi ngược lại với mục tiêu của Công ước CBD năm 1992; đồng thời, khuyến khích việc sử dụng bền vững và bảo tồn Đa dạng sinh học, trong đó có việc tiếp cận và chia sẻ lợi ích từ việc tiếp cận nguồn gen, giảm thiểu việc buôn bán trái phép các loài động vật hoang dã.

Thứ tư, quản lý tài nguyên rừng bền vững và thương mại lâm sản

Điều 13.8.1 EVFTA quy định các Bên công nhận tầm quan trọng của việc đảm bảo việc bảo tồn và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên rừng sẽ mang lại lợi ích cho các mục tiêu kinh tế, môi trường và xã hội.

Do đó, các Bên thống nhất đẩy mạnh quản lý tài nguyên rừng bền vững và đẩy mạnh hoạt động thương mại lâm sản, kiên quyết hợp tác đấu tranh chống lại tình trạng khai thác và buôn bán gỗ trái phép.

Thứ năm, quản lý và phát triển thương mại nguồn tài nguyên sinh vật biển và sản phẩm nuôi trồng thủy sản bền vững.

Điều 13.9.1 EVFTA quy định các Bên công nhận tầm quan trọng của việc bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên sinh vật biển và hệ sinh thái biển, cũng như việc thúc đẩy ngành nuôi trồng thủy sản một cách bền vững và có trách nhiệm trên cơ sở tuân thủ các biện pháp bảo tồn và quản lí dài hạn, khai thác bền vững nguồn tài nguyên sinh vật biển quy định trong các điều ước quốc tế đa phương.

Đồng thời, các Bên thúc đẩy việc hợp tác, tích cực tham gia đấu tranh chống lại việc đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU); trao đổi thông tin về các biện pháp quản lý mới đối với nguồn tài nguyên sinh vật biển và sản phẩm thủy sản có tác động đối với thương mại giữa các Bên, nhằm tiến tới thúc đẩy phát triển ngành nuôi trồng thủy sản bền vững, dựa trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.

Thứ sáu, cơ chế tự nguyện thực hiện bảo vệ môi trường.

Theo EVFTA, đây là nội dung bắt buộc thực hiện nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ khuyến khích các Bên sử dụng các cơ chế linh hoạt và tự nguyện để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường; tăng cường sự tham gia của các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ liên quan… vào việc xây dựng các tiêu chí sử dụng để đánh giá hoạt động bảo vệ môi trường theo cơ chế tự nguyện.

Đánh giá mức độ thực thi cam kết về môi trường trong các Hiệp định tự do thế hệ mới của doanh nghiệp Việt Nam

Hiệp định CPTPP là FTA thế hệ mới đầu tiên tại Việt Nam với những cam kết môi trường được quy định chính thức và chặt chẽ theo mục tiêu bảo đảm phát triển bền vững.

Trong giai đoạn sau này, Hiệp định EVFTA chính thức đi vào thực thi trong bối cảnh hết sức đặc biệt khi Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) phải đối mặt với thách thức từ đại dịch COVID-19 mang lại.

Quá trình thực thi Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA với những cam kết về môi trường đã góp phần mở ra nhiều hướng đi mới cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhằm bảo đảm thực hiện tổng hòa được các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại đầu tư.

Tuy nhiên, đây cũng là những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp hiện nay trước sức ép cạnh tranh của thị trường, khó khăn về vấn đề tài chính kinh tế…trong quá trình bảo đảm thực thi các cam kết về môi trường theo CPTPP và EVFTA.

Những thành tựu đạt được

Thứ nhất, mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về CPTPP và EVFTA nói chung và các cam kết về môi trường trong CPTPP và EVFTA nói riêng, chiếm tỷ lệ cao trong các FTA mà Việt Nam tham gia ký kết; từ đó thúc đẩy mức độ thực thi các cam kết về môi trường theo CPTPP và EVFTA đồng bộ và hiệu quả hơn.

CPTPP và EVFTA là một Hiệp định lớn, chất lượng cao với những cam kết sâu, rộng về nhiều vấn đề có tính quyết định tới hiệu quả chính sách phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Do đó, để có thể tận dụng được các cơ hội từ một FTA, việc doanh nghiệp có hiểu biết về các cam kết FTA là rất quan trọng.

Đối với một FTA lớn, phạm vi rộng và dự kiến sẽ có tác động sâu sắc tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là xuất nhập khẩu như CPTPP và EVFTA, việc nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về Hiệp định càng có ý nghĩa hơn.

Đối với Hiệp định CPTPP, theo kết quả khảo sát do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện, có tới 69% doanh nghiệp nghe nói hoặc biết sơ bộ về Hiệp định này, cao hơn tất cả các FTA thời kỳ đầu khác, trong đó có 25% doanh nghiệp có hiểu biết nhất định về Hiệp định. Cụ thể: Các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài có tỷ lệ biết về CPTPP cao nhất (29,7%), tiếp đến là các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước (27,3%), các doanh nghiệp dân doanh thuộc nhóm ít biết về CPTPP nhất cũng đạt được mức 22,6%[1].

Đối với Hiệp định EVFTA, theo kết quả khảo sát do VCCI thực hiện, EVFTA là FTA được nhiều doanh nghiệp Việt Nam biết tới nhất, cũng là Hiệp định có tỷ lệ các doanh nghiệp biết rõ cao nhất với gần 94% doanh nghiệp từng nghe nói hoặc biết ở các mức độ khác nhau Hiệp định này, cao nhất trong số các FTA đang thực hiện.

Điều này chỉ ra rằng, EVFTA thực sự là Hiệp định có tác động lớn và sâu rộng tới lợi ích của nhiều doanh nghiệp Việt Nam; qua đó góp phần nâng cao nhận thức và ý thức của doanh nghiệp đối với các vấn đề về bảo vệ môi trường trong quá trình thực thi các hoạt động phát triển kinh tế xã hội; thúc đẩy việc thực hiện các yêu cầu bảo vệ môi trường đồng bộ và hiệu quả hơn, bảo đảm phát triển bền vững.

Thứ hai, các cam kết về bảo vệ môi trường theo CPTPP và EVFTA là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam ưu tiên và chú trọng hơn việc thực hiện bảo vệ môi trường trong quá trình thúc đẩy thương mại đầu tư; qua đó góp phần nâng cao lợi thế và sức cạnh tranh của doanh nghiệp

Quá trình thực thi các cam kết về môi trường theo CPTPP đã và đang lại mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tạo điều kiện tăng trưởng cho ngành công nghiệp môi trường. Đây là một trong những ngành năng động, đổi mới và phát triển nhanh nhất trong nền kinh tế toàn cầu dưới sức ép của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường.

Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp môi trường tạo ra những cơ hội xuất khẩu mới và đẩy mạnh nhập khẩu hàng hóa môi trường có chất lượng cao cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Trong năm 2020, Việt Nam nhập khẩu 54 hàng hóa môi trường theo danh mục của APEC gấp đôi so với giá trị xuất khẩu (12,6 tỷ USD so với 6,1 tỷ USD).

Hoạt động xuất khẩu các bộ phận và thiết bị sản xuất năng lượng tái tạo, đặc biệt là những thiết bị liên quan đến năng lượng mặt trời, chiếm hơn 70% xuất khẩu hàng hóa môi trường của Việt Nam.

Quá trình thực thi các cam kết về môi trường theo CPTPP đã chỉ ra rằng, CPTPP thuộc top 3 FTA được các doanh nghiệp Việt Nam đánh giá cao nhất về mức độ khả thi và đem lại lợi ích cho doanh nghiệp với 51% doanh nghiệp tham gia khảo sát của VCCI đánh giá Hiệp định có tác động tương đối hoặc rất tích cực với hoạt động kinh doanh của mình thời gian qua (chỉ thấp hơn các FTA với Nhật Bản, gần như tương đương với các FTA với Hàn Quốc).

Trong quá trình thực thi các cam kết về môi trường theo EVFTA, cần nhận thức được rằng, trong số các thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam hướng tới, EU được biết đến là nhóm các quốc gia châu Âu phát triển, có yêu cầu rất cao, nghiêm ngặt về các tiêu chuẩn, chất lượng, an toàn về môi trường đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài.

Do vậy, trên cơ sở kiên trì và nhất quán với yêu cầu về bảo đảm phát triển bền vững, đối với hàng hóa và về môi trường, EU đưa ra các quy định chặt chẽ về quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan.

Việc dành riêng Chương 13 trong Hiệp định EVFTA để quy định về các vấn đề thương mại và phát triển bền vững đã chứng minh được vai trò và tầm quan trọng của những cam kết về môi trường mà doanh nghiệp Việt Nam phải bảo đảm tuân thủ nếu muốn gia tăng nhiều lợi ích cho doanh nghiệp khi EVFTA chính thức có hiệu lực.

Cần nhìn nhận rằng, mục đích chính của hoạt động kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận, qua đó nâng cao giá trị và lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, đóng góp chung vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.

Tuy nhiên, nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế tài nguyên và kinh tế chất thải có thể chỉ ra rằng, môi trường đóng vai trò vô cùng quan trọng và có tính quyết định đối với hiệu quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội khi là yếu tố cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào - tài nguyên thiên nhiên  cho quá trình phát triển, đồng thời là nơi chứa đựng và xử lý các chất thải (waste) được xả thải từ chính hoạt động phát triển kinh tế xã hội đó.

Do đó, tất yếu sự suy giảm về chất lượng môi trường sẽ kéo theo sự suy thoái của nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp trực tiếp tới sức khỏe và chất lượng môi trường sống của cộng đồng.

Xuất phát từ ý nghĩa đó, việc bảo đảm gắn kết các lợi ích và cam kết về bảo vệ môi trường trong quá trình thúc đẩy hoạt động thương mại đầu tư giữa Việt Nam và các Bên theo CPTPP và EVFTA chính là nền tảng để bảo đảm quá trình hợp tác lâu dài, cùng có lợi giữa các bên theo định hướng phát triển bền vững.

Đây vừa là điều kiện, vừa là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu và thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh theo định hướng sinh thái, thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu phát thải ra ngoài môi trường. Chỉ có đạt được các cam kết về bảo vệ môi trường theo CPTPP và EVFTA, doanh nghiệp Việt Nam mới có đủ năng lực và điều kiện để được hưởng các lợi ích về kinh tế theo thỏa thuận hợp tác giữa các Bên.

Điều này được thể hiện qua số lượng các doanh nghiệp đã được hưởng lợi từ CPTPP và EVFTA trong thời gian qua.

Theo kết quả khảo sát của VCCI, trong 524 doanh nghiệp phản hồi khảo sát, có tới 41% doanh nghiệp cho biết đã từng hưởng những lợi ích cụ thể từ EVFTA ở một hoặc các khía cạnh khác nhau và 24,7% doanh nghiệp đã được hưởng lợi từ những tác động tích cực do CPTPP mang lại.

Trong số này, các lợi ích phổ biến nhất mà doanh nghiệp ghi nhận đều xoay quanh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa (thương mại hàng hóa) như ưu đãi thuế quan đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu (với 40-42% doanh nghiệp); tiếp đó là các hiệu ứng như tăng đơn hàng, tăng doanh thu, lợi nhuận từ cung ứng hàng hóa/dịch vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu với EU.

Tuy nhiên, những lợi ích khác ít trực diện hơn nhưng cũng có ý nghĩa quan trọng với một tỷ lệ nhất định các doanh nghiệp như cơ hội hợp tác liên kết, đầu tư kinh doanh (30-37% doanh nghiệp) hay cơ hội đầu tư hoặc bảo hộ tài sản trí tuệ (9-12% doanh nghiệp).

Với một thị trường lớn và tiềm năng như các quốc gia tham gia CPTPP và EU, đây thực sự trở thành động lực lớn thúc đẩy các doanh nghiệp hiện nay trong việc chú trọng và đẩy mạnh thực hiện bảo vệ môi trường đồng bộ và hiệu quả hơn.

Thứ ba, quá trình đẩy mạnh thực thi các cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP và EVFTA của các doanh nghiệp đã góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về vấn đề này; qua đó tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, hiệu quả cho doanh nghiệp, đóng góp chung vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Doanh nghiệp là một trong những chủ thể có vai trò chi phối tới hiệu quả của thị trường sản xuất kinh doanh, quyết định tới hiệu quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.

Do đó, việc xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động, nâng cao sức cạnh tranh và giá trị của doanh nghiệp là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Với những lợi ích to lớn mà Hiệp định CPTPP và EVFTA đã và đang mang lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, Đảng và Nhà nước nhận định quá trình xây dựng và hoàn thiện khung chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm thực thi hiệu quả các cam kết trong CPTPP và EVFTA, trong đó có các cam kết về môi trường là yêu cầu cần thiết và quan trọng nhằm gia tăng lợi ích cho doanh nghiệp khi CPTPP và EVFTA chính thức có hiệu lực.

Trước Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Điều 157 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định: “Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và cá nhân chủ động đáp ứng yêu cầu về môi trường để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường khu vực và quốc tế” và “Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hội nhập kinh tế quốc tế có trách nhiệm phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường trong nước”.

Từ quy định này, có thể thấy, để có thể giúp hàng hóa, dịch vụ đáp ứng các yêu cầu về môi trường, các doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu những quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường được quy định không chỉ trong pháp luật quốc gia mà còn cả trong các điều ước quốc tế.

Tiếp đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có nhiều quy định mới trên cơ sở phù hợp với các Công ước quốc tế, Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam đã ký kết và tham gia, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để nước ta tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA, EVIPA, CPTPP..., góp phần phòng vệ, ngăn chặn, sàng lọc các dự án có công nghệ lạc hậu đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, chủ động vượt qua các hàng rào kỹ thuật trong cạnh tranh thương mại toàn cầu.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có quy định cụ thể về các vấn đề liên quan tới biến đổi khí hậu và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 của Chính phủ quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô dôn; kiểm soát ô nhiễm môi trường đại dương do chất thải nhựa gây ra; quy định về quản lí chất thải rắn sinh hoạt bảo đảm theo nguyên tắc chi phí lợi ích…

Đồng thời, hệ thống pháp luật môi trường Việt Nam hiện hành đã và đang hoàn thiện các quy định về bảo tồn đa dạng sinh học (Luật Đa dạng sinh học năm 2008), bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng và thương mại lâm sản (Luật Lâm nghiệp năm 2017), bảo vệ và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản (Luật Thủy sản)… là cơ sở quan trọng cho việc bảo đảm thực thi các cam kết về môi trường theo CPTPP và EVFTA của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.

Những khó khăn, thách thức

Thứ nhất, hiểu biết và nhận thức và sự tham gia của một số doanh nghiệp trong việc thực hiện các cam kết môi trường trong Hiệp định CPTPP và EVFTA còn hạn chế, từ đó làm ảnh hưởng tới giá trị và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Mặc dù số lượng các doanh nghiệp chủ động tìm hiểu và hiểu biết kĩ càng về các cam kết môi trường trong Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA ngày càng tăng, tuy nhiên, một số doanh nghiệp vẫn chưa nhìn nhận đúng mức về các giá trị lợi ích mà CPTPP và EVFTA mang lại nên thường có tâm lí e ngại, bàng quan trong việc tìm hiểu và chủ động thay đổi để đạt được những cam kết về môi trường theo CPTPP và EVFTA.

Theo kết quả khảo sát do VCCI thực hiện, khi được hỏi EVFTA và FTA liệu có tác động tới triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 năm tới hay không, có tới 76,3% các doanh nghiệp phản hồi khảo sát khẳng định các FTA sẽ có tác động, ảnh hưởng tới doanh nghiệp, chỉ có 3,8% cho rằng doanh nghiệp sẽ không chịu tác động nào từ các Hiệp định này.

Tuy nhiên, cũng có 19,9% doanh nghiệp lưỡng lự, không chắc liệu mình có chịu tác động gì từ các FTA này hay không. Đối với Hiệp định CPTPP, cứ 20 doanh nghiệp mới có 1 doanh nghiệp biết rõ về các cam kết CPTPP liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.

Trong so sánh với các FTA khác của Việt Nam, tỷ lệ biết về cam kết CPTPP ở mức tương đối hoặc biết rõ (25%) chỉ cao hơn mức trung bình (23%) và kém khá xa so với FTA tốp đầu (các FTA ASEAN, 31%).

Theo kết quả khảo sát do VCCI thực hiện, khoảng ¾ doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nhận định họ không có bất kỳ hoạt động kinh doanh nào liên quan tới thị trường hay đối tác ở khu vực CPTPP trong thời gian qua.

Điều này xuất phát bởi  các Bên tham gia CPTPP không phải là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam khi khối này chỉ chiếm chưa đầy 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019.

Việc một số doanh nghiệp chưa “mặn mà” với việc tìm hiểu và thực hiện các cam kết về môi trường theo CPTPP và EVFTA có thể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như: Doanh nghiệp tự nhận thấy các lợi ích CPTPP và EVFTA mang lại không có liên quan tới lĩnh vực hoạt động của mình; hoặc do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, thiếu thông tin cụ thể về các cam kết và cách thức áp dụng.

Việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa để được hưởng các ưu đãi đầu tư khó áp dụng, còn những hạn chế trong khung chính sách, pháp luật về tổ chức thực thi các cam kết môi trường theo CPTPP và EVFTA của cơ quan quản lý nhà nước cùng với những biến động và rủi ro của thị trường.

Đây vừa là những khó khăn, vừa là những thách thức của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình thực hiện đồng bộ và hiệu quả các cam kết về môi trường theo Hiệp định CPTPP và EVFTA.

Thứ hai, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nguy cơ bị “thiệt hại” về các lợi ích kinh tế trong quá trình thực hiện các cam kết môi trường theo Hiệp định CPTPP và EVFTA, từ đó gây ra tâm lý e ngại, “bỏ cuộc” trong việc thực hiện các cam kết về môi trường.

Bên cạnh những cơ hội, Hiệp định CPTPP và EVFTA cũng tạo thêm những thách thức cho một số các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện những cam kết về môi trường.

Theo kết quả khảo sát thực tế doanh nghiệp sau 2 năm thực thi EVFTA do VCCI thực hiện, có hơn 4% doanh nghiệp cho biết đã từng chịu những thiệt hại nhất định từ việc thực thi Hiệp định, bao gồm cả những doanh nghiệp vừa được hưởng lợi nhưng cũng phải chịu thiệt hại từ EVFTA.

Kết quả khảo sát cho thấy, tác động bất lợi phổ biến nhất mà doanh nghiệp phải chịu từ EVFTA là các chi phí tăng thêm mà doanh nghiệp phải chuẩn bị hoặc thực hiện để sẵn sàng cho các tiêu chuẩn cao về bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững theo Hiệp định hoặc theo yêu cầu của thị trường EU để có thể tận dụng cơ hội từ Hiệp định này (59,1%), tiếp đó là việc sản phẩm của doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng hóa nhập khẩu hưởng ưu đãi từ EVFTA (31,8%) và lo ngại các biện pháp bảo vệ sản xuất nội địa phải dỡ bỏ theo cam kết (36,5%).

Đối với CPTPP, có khoảng 4% các doanh nghiệp phải đối mặt với những thiệt hại do sức ép cạnh tranh (phổ biến nhất là thiệt hại do sản phẩm của doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng hóa nhập khẩu hưởng ưu đãi từ CPTPP), cũng như chi phí tuân thủ (các khoản chi phí tăng thêm để sẵn sàng cho cam kết tiêu chuẩn cao về môi trường trong CPTPP).

Trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đã và đang duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh theo nền “kinh tế nâu” - nền kinh tế truyền thống với mức độ tiêu tốn tài nguyên thiên nhiên và phát thải cao ra ngoài môi trường, dẫn tới việc phải chuyển đổi sang nền “kinh tế xanh”, thân thiện với môi trường là yêu cầu không thể diễn ra nhanh chóng trong khoảng thời gian ngắn.

Quá trình này phụ thuộc phần lớn vào ý thức và năng lực của doanh nghiệp, thể chế thị trường, khung chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, tham gia vào CPTPP và EVFTA, doanh nghiệp Việt Nam sẽ buộc phải nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

Việc nhiều doanh nghiệp chưa hình thành các bộ phận về hội nhập quốc tế tất yếu sẽ dẫn tới việc chưa chuẩn bị sẵn sàng về khả năng xử lý những vấn đề môi trường liên quan đến quá trình sản xuất - kinh doanh sản phẩm của mình, do đó chưa sẵn sàng vượt qua các hàng rào kỹ thuật về môi trường theo CPTPP và EVFTA.

Thứ ba, khung chính sách, pháp luật về bảo đảm thực hiện các cam kết về môi trường theo Hiệp định CPTPP và EVFTA còn nhiều khó khăn, thách thức; từ đó ảnh hưởng tới quá trình thực hiện các cam kết môi trường theo CPTPP và EVFTA của doanh nghiệp Việt Nam.

Hệ thống pháp luật môi trường Việt Nam hiện hành đã ban hành tương đối đầy đủ các quy định về quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường nhưng phần lớn vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn của các nước thành viên CPTPP và EU.

Ví dụ như: Các yêu cầu bắt buộc của EU về môi trường đối với mặt hàng dệt may xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.

Mặc dù các nhà sản xuất Việt Nam đã đáp ứng quy định trong Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) và Hiệp định vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (Hiệp định SPS) của tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhưng nhiều hàng hóa của Việt Nam vẫn bị từ chối khi xuất khẩu sang EU.

Theo đó, EU đã đưa ra các yêu cầu pháp lý bắt buộc về (1) An toàn thực phẩm; (2) REACH và sử dụng hóa chất; (3) Danh sách các chất bị hạn chế (RSL); (4) Yêu cầu đặc biệt đối với quần áo trẻ em; (5) Dấu CE; (6) Chất diệt khuẩn; (7) Ghi nhãn sản phẩm; (8) Quyền sở hữu trí tuệ; (9) Công ước CITES trong lĩnh vực dệt may cùng với những yêu cầu phi pháp lý bắt buộc khác bao gồm: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR); Yêu cầu phi lý đối với vật liệu cơ bản; Yêu cầu phi lý đối với vật liệu cơ bản;  Yêu cầu phi lý đối với sản xuất hàng may mặc.

Bên cạnh đó, mặc dù trong giai đoạn hiện nay, ngành dệt may của Việt Nam của chưa thuộc trường hợp thuế biên giới các bon (CBAM); tuy nhiên, dệt may cũng là nhóm mặt hàng có tác động đến môi trường lớn ở EU, do đó nằm trong nhóm 30 mặt hàng trong diện rủi ro có thể được đưa vào cơ chế CBAM tính từ giai đoạn hiện nay đến năm 2030.

Đây thực sự trở thành thách thức lớn đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc xây dựng khung chính sách, pháp lí bảo đảm đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh quá trình thực hiện các cam kết về môi trường theo EVFTA của các doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng và hiệu quả.

Bên cạnh đó, mặc dù đã chính thức luật hóa vấn đề xây dựng và phát triển thị trường các bon trong hệ thống pháp luật môi trường hiện hành, tuy nhiên, các quy định trên vẫn còn có khoảng cách nhất định so với yêu cầu xây dựng thị trường các bon “với cơ chế định giá hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế” của CPTPP và EVFTA trong việc xác định các nguyên tắc chủ đạo trong việc xây dựng và phát triển thị trường các bon và mô hình thị trường các bon mà Việt Nam đang hướng tới là tương thích với xu hướng quốc tế.

Điều này cần được xây dựng và bảo đảm thực hiện trên cơ sở thống nhất với các điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam đã kí kết và tham gia như: Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992 (UNFCCC), Nghị định thư Kyoto năm 1997 và đặc biệt là Hiệp định Paris năm 2015.

Mặt khác, còn một số hạn chế trong việc đáp ứng các yêu cầu về bảo đảm phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện hoạt động này; quy định pháp luật về quản lí chất thải và chuyển sang nền kinh tế phát thải thấp còn chưa rõ ràng, thiếu cơ chế bảo đảm thực thi.

Điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ đáp ứng các yêu cầu về phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường trong Hiệp định CPTPP và EVFTA.

Thêm vào đó, việc bảo đảm thực thi các cam kết về môi trường theo CPTPP còn gặp khó khăn nhất định do nội dung quy định quyền bảo vệ lợi ích công cộng về môi trường tại CPTPP mà Việt Nam đã ký kết không hoàn toàn tương thích với pháp luật quốc gia Việt Nam.

Với tư cách là thành viên của Công ước Vienna 1969 và đã nội luật hóa các quy định này vào Luật Điều ước quốc tế năm 2016, các văn bản luật chuyên ngành của Việt Nam, cụ thể như Luật Đầu tư hiện hành, đều quy định ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của các luật đó.

Theo quan điểm của Việt Nam, quyền bảo vệ môi trường của Nhà nước được xem xét với tư cách là một nội dung của quyền bảo vệ lợi ích công cộng và không bị giới hạn bởi các điều ước quốc tế đã ký kết; tuy nhiên, việc chứng minh Nhà nước đã đáp ứng các điều kiện để thực hiện quyền là không hề đơn giản.

Do đó, trong bối cảnh giới hạn của quyền này vẫn còn chưa thống nhất trong thực tiễn trọng tài đầu tư quốc tế, nếu xảy ra tranh chấp trong lĩnh vực trên, cùng với sự thiếu hụt về kinh nghiệm tham gia loại tranh chấp này, Việt Nam có thể đối mặt với nhiều khó khăn trong việc bình ổn quan hệ đối tác với các Bên.

Tham gia kí kết Hiệp định CPTPP và EVFTA, Việt Nam đã sẵn sàng tham gia sân chơi thương mại tự do rộng lớn, cạnh tranh với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.

Trước những thời cơ và thách thức đang ngày càng trở nên rõ rệt hơn, Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam phải thực sự nỗ lực, khẩn trương trong việc thực hiện các cam kết về môi trường nhằm bảo đảm tận dụng được tối đa các lợi ích, do CPTPP và EVFTA mang lại. Xây dựng và đẩy mạnh phát triển kinh tế tuần hoàn, xây dựng nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.

Nguồn: kinhtemoitruong.vn