Tin tức

Khi nhà đầu tư Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam

20/07/2023    242

Bức tranh về thu hút đầu tư nước ngoài nửa đầu năm nay cho thấy sự gia tăng mạnh mẽ của nhà đầu tư đến từ Trung Quốc. Họ đã vượt qua các nhà đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản hay Singapore… để dẫn đầu số dự án đầu tư vào Việt Nam.

Bên cạnh sự đóng góp vốn, tạo việc làm và phát triển kinh tế thì sự gia tăng đầu tư từ nước láng giềng này cũng được cho là không ít thách thức.

Dẫn đầu số dự án đầu tư vào Việt Nam

Tập đoàn HKC Overseas Limited (Trung Quốc) mới đây đón giấy chứng nhận đầu tư từ Ban quản lý các khu công nghiệp Đồng Nai (DIZA) để xây dựng nhà máy tại địa phương này. Với tổng vốn đầu tư đăng ký 10 triệu đô la Mỹ, dự án sẽ được triển khai tại Khu công nghiệp Nhơn Trạch 2 – Lộc Khang nhằm sản xuất màn hình, tivi…

Tập đoàn HKC Overseas Limited tiếp tục nối dài danh sách nhà đầu tư Trung Quốc tăng cường rót vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm gần đây, nhất là trong 6 tháng đầu năm nay, số dự án từ quốc gia láng giềng tỉ dân này dẫn đầu được cấp phép đầu tư ở Việt Nam.

Cụ thể theo số liệu báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong nửa đầu năm nay, cả nước có hơn 1.290 dự án FDI được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tăng gần 72% so với cùng kỳ năm ngoái.

Đáng chú ý, nhà đầu tư đến từ Trung Quốc đã vượt qua các nhà đầu tư có nhiều đầu tư vào Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Singapore… để dẫn đầu số dự án đầu tư vào nền kinh tế gần 10 triệu dân, chiếm 18% tổng số dự án FDI mới được cấp phép trong nửa đầu năm nay. Năm ngoái, ngôi vị này đến từ các nhà đầu tư Hàn Quốc chiếm 20,4% số dự án FDI mới của cả nước.

Trên thực tế trong những năm gần đây, doanh nghiệp và nhà đầu tư Trung Quốc ngày càng gia tăng rót vốn vào nền kinh tế gần 100 triệu dân. Chẳng những thế, các doanh nghiệp ở đất nước tỉ dân này còn liên tục tăng vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh.

Đơn cử như Yadea – Tập đoàn phát triển và sản xuất xe hai bánh chạy điện của Trung Quốc sau hơn 4 năm có mặt tại Việt Nam, gần đây đã quyết định đầu tư thêm dự án mới tại tỉnh Bắc Giang. Với tổng vốn đăng ký 100 triệu đô la Mỹ, dự án sẽ được thực hiện trên diện tích hơn 23 ha, công suất dự kiến khoảng 2 triệu xe/năm.

Bên cạnh đó, Yadea cũng sẽ tiếp tục mở Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tại tỉnh Bắc Giang; đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp vệ tinh cùng liên kết để phát triển sản phẩm.

Trong khi đó, với các nhà đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc thì không ngừng dịch chuyển đầu tư ra các nước, trong đó Việt Nam cũng được hưởng lợi khi không ít nhà đầu tư FDI chọn là một trong những điểm đến.

Việc dịch chuyển dòng vốn FDI theo xu hướng “Trung Quốc +1” vẫn tiếp tục đang diễn ra. Hàng loạt tập đoàn nước ngoài sẽ không dồn tất cả vốn đầu tư vào Trung Quốc mà sẽ phân tán và đa dạng hóa đầu tư sang một nước khác, trong đó Việt Nam là sự lựa chọn nhiều trong khu vực Đông Nam Á.

Đẩy mạnh dịch chuyển, đa dạng hóa nhà xưởng ngoài Trung Quốc

Trên thực tế, việc chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc đã diễn ra cách đây hơn 10 năm, bắt đầu từ các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc có nhà máy, phân xưởng đặt tại Trung Quốc… Sau đó xảy ra xung đột thương mại Mỹ – Trung khiến các nhà đầu tư chuyển dịch hoặc đa dạng hóa phân xưởng sản xuất sang khu vực Đông Nam Á (ASEAN), để né tránh các chính sách thuế cùng biện pháp phòng hộ thương mại giữa 2 cường quốc.

Tới khi đại dịch Covid-19 diễn ra dẫn tới đứt gãy chuỗi cung ứng, dòng vốn tiếp tục dịch chuyển để đảm bảo chuỗi cung ứng không lặp lại tình trạng đứt gãy như thời kỳ đầu đại dịch.

Với vị trí chiến lược quan trọng, tiếp giáp với Trung Quốc, nơi cung ứng nguồn hàng hóa, nguyên liệu quy mô lớn và là một thị trường lớn, Việt Nam có điều kiện để nhà đầu tư tiết giảm chi phí vận chuyển và kết nối ổn định chuỗi cung ứng tại Trung Quốc. Do đó, Việt Nam được đánh giá là lựa chọn hàng đầu ở khu vực ASEAN trong xu hướng này.

Bên cạnh đó, cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn chưa có tín hiệu cải thiện. Hiện Mỹ đánh thuế vào các hàng hóa từ Trung Quốc rất cao, áp đặt mức thuế nhập khẩu tới 25% đối với nhiều hàng hóa nhập khẩu, buộc các doanh nghiệp tại nước này phải tìm kiếm thị trường khác để tiêu thụ số hàng hóa không thể xuất khẩu sang Mỹ, đồng thời gia tăng đầu tư ra nước ngoài để đối phó với các biện pháp của Mỹ.

Đáng chú ý, 15 Hiệp định thương mại tự do (FTAs) đang có hiệu lực với hàng hóa sản xuất của Việt Nam vào các thị trường này thuế suất bằng 0 hoặc rất thấp sẽ là cơ hội rất lớn cho các nhà đầu tư.

Riêng nhà đầu tư Trung Quốc tăng tốc dịch chuyển đến Việt Nam trong những năm gần đây cũng được cho là bắt đầu từ cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung manh nha từ những năm trước đã thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư từ Trung Quốc chuyển một phần vốn sang một nước khác trong khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam.

Cùng với chi phí nhân công rẻ, sự ổn định về môi trường chính trị – xã hội, vĩ mô… các yếu tố này đã được các doanh nghiệp Trung Quốc nhận ra, tìm kiếm cơ hội để mở rộng quy mô thương mại hai chiều, tăng nhanh các dự án đầu tư trực tiếp.

Có thể nhận thấy hoạt động sản xuất chỉ tập trung ở Trung Quốc không còn được xem là giải pháp an toàn với các nhà sản xuất, ngay cả doanh nghiệp và nhà đầu tư chính quốc. Bởi vị thế là công xưởng của thế giới của Trung Quốc dù vẫn còn nhưng không còn mạnh như trước đây.

Theo tờ South China Morning Post, doanh nhân Norman Cheng, chủ sở hữu Strategic Sports, một trong những nhà sản xuất mũ bảo hiểm lớn trên thế giới cho biết, việc dịch chuyển hoạt động ra ngoài Trung Quốc được xem là một giải pháp sống còn đối với doanh nghiệp.

Ông Cheng đang có ý định mở một nhà máy thông minh tại Việt Nam vào năm tới với tổng mức đầu tư khoảng 30 triệu đô la. Đây sẽ là một bản sao của nhà máy mà ông đã mở ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc gần đây.

Kế hoạch của Strategy Sports được đưa ra sau thời gian dài cân nhắc và nguyên nhân không phải là lo ngại về năng lực sản xuất. Ông Cheng cho rằng, Strategy Sports đang có rất nhiều thứ ở Trung Quốc – nơi nhà máy tự động hóa đầu tiên của công ty đã đi vào hoạt động cách đây hơn 2 năm và công suất được tăng thêm hàng triệu mũ bảo hiểm trong mỗi năm.

Quyết định của Strategy Sports được đưa ra sau thời gian dài cân nhắc và nguyên nhân không phải là lo ngại về năng lực sản xuất. Việc dịch chuyển bắt nguồn từ nỗ lực mang tính chiến lược nhằm phòng ngừa rủi ro chính trị đang ngày càng gia tăng và mong muốn giữ chân các khách hàng phương Tây.

Ông Cheng cho biết, có rất nhiều khách hàng nước ngoài của công ty ngày càng tỏ ra lo lắng và thận trọng hơn về chuỗi cung ứng, họ muốn phòng ngừa rủi ro bằng cách tìm kiếm nguồn cung từ nhiều quốc gia khác bên ngoài Trung Quốc.

“Nếu chỉ xét về vấn đề năng lực sản xuất thì chúng tôi sẽ không phải xây nhà máy mới ở Việt Nam, nhưng ở góc độ địa chính trị, chúng tôi buộc phải làm vậy. Các khách hàng Mỹ đã thúc giục chúng tôi dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam. Vì họ cam kết sẽ đặt đơn hàng từ Việt Nam, nên chúng tôi quyết định đến quốc gia này”, South China Morning Post dẫn lời vị doanh nhân này.

Tuy nhiên, kể cả khi có kế hoạch mở rộng sản xuất sang quốc gia khác, doanh nghiệp không có ý định bỏ Trung Quốc. Ngược lại, kể cả khi việc mở cửa nhà máy ở Quảng Đông bị trì hoãn gần 2 năm do các biện pháp phòng chống dịch, cơ sở này vẫn là một bánh răng quan trọng trong cỗ máy sản xuất của công ty. Ông Cheng chọn Quảng Đông bởi trung tâm sản xuất này đã hình thành các cụm công nghiệp phức tạp trong nhiều thập kỷ qua.

Nhưng thực tế cho thấy chỉ phụ thuộc vào hoạt động sản xuất ở Trung Quốc không còn được xem là giải pháp an toàn nhất đối với các nhà sản xuất. Bởi vị thế là “công xưởng của thế giới” của Trung Quốc không còn mạnh như trước đây. Cùng với nỗi lo về vấn đề địa chính trị, mối quan ngại rằng Trung Quốc đang đối mặt một cuộc khủng hoảng nhân khẩu học khiến các doanh nghiệp ở đây gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có tay nghề.

Tại Việt Nam, nhà máy đang dự kiến xây dựng của ông Cheng sẽ được tự động hóa ở mức độ cao, cho phép 400 công nhân có thể sản xuất được khoảng 8 triệu mũ bảo hiểm mỗi năm. Nhà máy này cũng sử dụng năng lượng xanh với tấm năng lượng mặt trời và hệ thống tái chế nước mưa.

Cơ hội nhiều nhưng thách thức không ít

Theo giới phân tích làn sóng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam được xem vừa là cơ hội nhưng cũng là không ít thách thức.

Xét ở góc độ thu hút đầu tư đơn thuần cũng như đối với các doanh nghiệp phát triển hạ tầng bất động sản công nghiệp tại Việt Nam thì đây là một tín hiệu tốt. Trong bối cảnh đất nước mở cửa chào đón đầu tư FDI dù là nhà đầu tư đến từ quốc gia nào thì doanh nghiệp làm hạ tầng cũng sẽ thu được tiền thuê đất, có dự án là sẽ có vốn đầu tư được giải ngân, qua đó sẽ tạo nhiều việc làm, đóng góp kinh tế, các loại thuế vào ngân sách…

Tuy nhiên, đằng sau bức tranh thu hút đầu tư được cho là khá tích cực đó các chuyên gia cũng đặt ra không ít băn khoăn khi các nhà đầu tư Trung Quốc ngày càng đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam thời gian qua.

Nếu nhà đầu tư Trung Quốc chủ yếu đưa thiết bị lạc hậu, công nhân, chuyên gia của họ sang Việt Nam thì được cho là thách thức hơn là thuận lợi. Bởi lẽ Trong bối cảnh cuộc thương chiến Mỹ – Trung hiện nay, Việt Nam sẽ có nguy cơ bị biến thành “cứ điểm” để các doanh nghiệp Trung Quốc gian lận nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Việc này cũng khiến hàng Việt Nam có nguy cơ bị áp thuế trừng phạt với mức cao từ các quốc gia nhập khẩu trong đó có Mỹ và các nước châu Âu,…

Câu chuyện một số sản phẩm đồ gỗ Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng cao trong những năm qua cũng từng bị nước này nghi ngờ ngành gỗ Việt Nam đang trở thành điểm đến đầu tư “núp bóng” của một số nhà đầu tư ngoại và Trung Quốc để lẫn tránh thuế, dẫn đến nhiều rủi ro thương mại. Điều này khiến doanh nghiệp nội địa hoang mang vì tạo ra nhiều rủi ro cho xuất khẩu gỗ của Việt Nam.

Theo đại diện các Hiệp hội gỗ các địa phương, có trường hợp một số nhà đầu tư rót vốn vào ngành này của Việt Nam chỉ thực hiện những công đoạn giản đơn, không đầu tư dây chuyền máy móc quy chuẩn để hoạt động lâu dài mà chủ yếu chủ yếu đưa sản phẩm từ Trung Quốc đến lắp ráp rồi cho xuất khẩu. Và cũng có hiện tượng nhà đầu tư ngoại thâu tóm doanh nghiệp gỗ trong nước để xuất khẩu vào thị trường Mỹ và các nước.

Tuy nhiên, để đưa ra những bằng chứng cụ thể về lượng doanh nghiệp đầu tư chui hoặc đầu tư núp bóng như thế nào thì cần phải có cuộc điều tra cụ thể từ nhiều đơn vị, cơ quan quản lý và cả doanh nghiệp trong ngành.

Có thể thấy xu hướng dịch chuyển các dòng vốn đầu tư ra khỏi Trung Quốc và nhiều quốc gia phát triển để tận dụng các Hiệp định tự do thương mại (FTA) được ký ngày càng nhiều. Việc tăng ưu đãi nguồn gốc xuất xứ cho các nước tham gia hiệp định và siết chặt nhập khẩu, đánh thuế cao với các sản phẩm của các nước ngoài các FTA khiến các doanh nghiệp, nhà đầu tư phải toan tính những bước đi mới đến các nước được hưởng ưu đãi nguồn gốc xuất xứ, điển hình như Việt Nam.

Không chỉ ngành gỗ mà thực tế thời gian qua, hàng hóa từ Việt Nam đã thâm nhập được nhiều thị trường lớn, tạo ra áp lực cạnh tranh đối với các ngành sản xuất tại nước nhập khẩu. Điều này khiến các ngành sản xuất của nước nhập khẩu yêu cầu chính phủ họ sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ để bảo vệ mình.

Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có khả năng trở thành đối tượng bị điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại…

Theo các chuyên gia, việc cần làm trong việc thu hút đầu tư cần nghiên cứu bổ sung những quy định pháp luật chưa chặt chẽ hoặc còn có khoảng trống để vừa thu hút được vốn FDI lại vừa tránh được nhưng nguy cơ cho kinh tế và an ninh quốc phòng.

Quan trọng nhất là việc xây dựng luật pháp và các chế tài liên quan cần chặt chẽ, khoa học và toàn diện, vừa thu hút đầu tư, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, vừa đảm bảo phát triển kinh tế xã hội.

Đã đến lúc Việt Nam không cần phải thu hút vốn FDI bằng mọi giá, mà cần kiểm soát công nghệ từ Trung Quốc chuyển vào Việt Nam, tuyệt đối ngăn chặn những dự án có công nghệ lạc hậu, thâm dụng nhiều lao động và gây ô nhiễm môi trường đến Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần cảnh giác tránh trở thành xưởng gia công của thế giới, tránh trường hợp các doanh nghiệp Trung Quốc “mượn” sản xuất Việt Nam để xuất khẩu vào Mỹ.

Nguồn: Kinh tế Sài Gòn Online