Trong bối cảnh khu vực ASEAN đang phải đối mặt với tình trạng bất bình đẳng kinh tế chưa từng có, việc giảm thu ngân sách từ thuế sẽ làm cho tất cả các nước thành viên gặp khó khăn trong việc huy động nguồn lực để đầu tư cho phúc lợi công.

Ưu đãi thuế không làm tăng đầu tư từ nước ngoài

Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VERP) được công bố tại Hội thảo “Hướng tới chính sách thuế bền vững trong khối ASEAN – Trường hợp ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp" tổ chức chiều 25/6, khu vực ASEAN đang phải đối mặt với tình trạng bất bình đẳng kinh tế chưa từng có. Hệ thống thuế lũy tiến và chi ngân sách cho các dịch vụ công thiết yếu như y tế, giáo dục, và an sinh xã hội là những biện pháp hiệu quả nhất để chống lại nghèo đói và giảm bất bình đẳng. Tuy nhiên, hầu hết chính phủ của các quốc gia trong khu vực ASEAN chưa đầu tư đúng mức vào những dịch vụ công thiết yếu này. 

“Thực tế đáng lo ngại nhất là việc thiếu hụt ngân sách cho các khoản chi này diễn ra trong bối cảnh các quốc gia trong khu vực vẫn đang đối mặt với áp lực tài khóa. Hầu hết các nước thành viên ASEAN đều có mức thâm hụt ngân sách trong một thời gian dài. Malaysia, Myanmar, và Lào đều thâm hụt ngân sách trong tất cả các năm của giai đoạn 2000-2020 (21 năm). Việt Nam, Campuchia, Indonesia, và Philippines có từ 17 đến 20 năm thâm hụt ngân sách trong giai đoạn này. Chỉ tính riêng năm 2018, sáu quốc gia thành viên ASEAN có mức thâm hụt ngân sách lớn và một số quốc gia ghi nhận mức nợ công cao. Tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài và nợ công cao sẽ tiếp tục gia tăng đáng kể khi các nước tăng chi tiêu để giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế và y tế do đại dịch Covid-19 gây ra. Các nước ASEAN dự kiến phải đối mặt với thâm hụt ngân sách với tỷ lệ trung bình 4,2% GDP năm 2020”, VERP phân tích. 

Đáng chú ý, nghiên cứu của VERP chỉ ra rằng, cũng giống như nhiều khu vực khác trên thế giới, các nước thành viên ASEAN đang cạnh tranh với nhau trong một cuộc đua xuống đáy bằng cách hạ thấp mức thuế thu nhập doanh nghiệp và liên tục đưa ra các ưu đãi thuế rất lớn đối với các nhà đầu tư. Trong 10 năm qua, thuế suất trung bình thuế thu nhập doanh nghiệp của khu vực đã giảm từ mức trung bình 25,1% năm 2010 xuống còn 21,7% năm 2020. 

Với thực trạng một số nước thành viên áp dụng thời gian ân hạn thuế lên tới 20 năm và các ưu đãi lớn khác dựa trên lợi nhuận, mức thuế suất trung bình thuế thu nhập doanh nghiệp thực nộp giảm 9,4%. Điều này khiến ASEAN trở thành một trong những khu vực có mức thuế thu nhập doanh nghiệp thực nộp sau ưu đãi thuế thấp nhất trên thế giới. Cạnh tranh thuế và ưu đãi thuế trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hành vi dịch chuyển lợi nhuận. 

VERP chỉ ra rằng, các quốc gia như Thái Lan, Indonesia, và Malaysia ước tính mất ít nhất từ 6-9% doanh thu thuế thu nhập doanh nghiệp do hành vi chuyển lợi nhuận của các công ty đa quốc gia. “Không có bằng chứng thực nghiệm nào cho thấy ưu đãi thuế làm tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài tạI ASEAN, thậm chí thực tế còn ngược lại. Hầu hết các ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại ở ASEAN không nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư dài hạn, mà thay vào đó được sử dụng để khỏa lấp những yếu kém trong năng lực quản trị và cơ sở hạ tầng, và đáp ứng mong muốn ngắn hạn của các nhà đầu tư bằng cách cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống mức tối thiểu. Bên cạnh đó, ưu đãi thuế thậm chí đã tạo ra môi trường đầu tư không công bằng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, VERP nhấn mạnh.

Chấm dứt "cuộc đua xuống đáy" về ưu đãi thuế

Để giải quyết thực trạng trên, theo Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Cố vấn trưởng, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), đây chính là thời điểm ASEAN và các nước thành viên tăng cường hợp tác và thống nhất với nhau về tiêu chuẩn tối thiểu chung đối với ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong khu vực. Các Chính phủ cần ngăn chặn các thực hành thuế có hại gây thất thu ngân sách, mất đi nguồn lực để đầu tư cho các dịch vụ công thiết yếu và tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nước thành viên.

“Những ưu đãi thuế này mang lại lợi nhuận cho các tập đoàn lớn mà bỏ qua phúc lợi của người dân châu Á. Việc làm này cần phải được chấm dứt. ASEAN cần đưa ra một danh sách đen về các loại hình ưu đãi thuế không được phép sử dụng; đồng thời tạo một ranh giới rõ ràng và nói không với những thực hành thuế có hại đang gây xói mòn ngân sách quốc gia. Nếu cần thiết, chỉ cho phép áp dụng ưu đãi thuế cho các đầu tư mang lại lợi ích cho người dân và không được áp dụng cho một ngoại lệ nào khác”, ông Thành nói.

Chia sẻ tại Hội nghị, ông Ah-Maftuch, Điều phối viên Liên minh Thuế và Công bằng Tài khóa châu Á cho rằng, các quốc gia thành viên ASEAN cần phối hợp loại bỏ các chính sách thuế có lợi cho nước mình nhưng có hại cho nước láng giềng, chấm dứt “cuộc đua xuống đáy” về ưu đãi thuế gây thất thu ngân sách, khiến cho người dân các quốc gia nghèo hơn thêm khó khăn trong cuộc sống.

Trên cơ sở kinh nghiệm của khu vực ASEAN cũng như các khu vực khác trên thế giới và xem xét các trường hợp cụ thể trong khối ASEAN, VERP đưa ra ba khuyến nghị. Đó là ngoài việc cần xây dựng danh sách đen và danh sách trắng về ưu đãi thuế để loại bỏ các thực hành thuế có hại, ASEAN cần đạt được đồng thuận về một mức chuẩn chung về thuế tối thiểu. Đồng thời, ASEAN cần xây dựng các quy định về quản trị tốt các ưu đãi thuế. 

Ông Tony Salvador, Nghiên cứu viên về Pháp lý tại Third World Network, một thành viên Hội đồng điều phối của TAFJA cho rằng, trên tinh thần bình đẳng và hợp tác, các quốc gia thành viên ASEAN cần hợp tác để xây dựng hệ thống thuế công bằng và bền vững hơn nhằm tạo điều kiện để mỗi quốc gia thành viên thu đủ ngân sách cho phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội. 

“Là một cộng đồng gắn kết và chủ động thích ứng, các quốc gia thành viên có thể huy động thêm nguồn lực cho các dịch vụ thiết yếu như y tế, giáo dục và các phúc lợi công khác, giúp thay đổi cuộc sống của hàng triệu người dân đang vật lộn để vượt qua đại dịch và đói nghèo”, ông Tony Salvador nhấn mạnh

Nguồn: Báo Hải quan