Giải quyết tranh chấp số DS113

29/03/2011    355

Canada — Các biện pháp ảnh hưởng tới Xuất khẩu Sản phẩm Sữa

Thực thi giải pháp được các bên thống nhất tực thi 9 tháng 5 năm 2003

Tiêu đề:

Canada — Sản phẩm sữa

Nguyên đơn:

New Zealand

Bị đơn:

Canada

Các bên thứ ba:

Achentina; Australia; Cộng đồng châu Âu; Nhật Bản; Mêhicô; Mỹ

Các hiệp định được viện dẫn: (được nêu trong yêu cầu tham vấn)

Hiệp định vê Nông nghiệp: Điều 3, 8, 9, 10;

GATT 1994: Điều X:1

Yêu cầu tham vấn ngày:

29 tháng 12 năm 1997

Ngày ban hành báo cáo của Ban hội thẩm:

17 tháng 5 năm 1999

Ngày ban hành báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm:

13 tháng 10 năm 1999

Ngày ban hành báo cáo của Ban Hội thẩm theo điều 21.5:

11 tháng 7 năm 2001

Ngày ban hành báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm theo điều 21.5:

3 tháng 12 năm 2001

Ngày ban hành báo cáo của Ban Hội thẩm theo điều 21.5 lần thứ hai:

26 tháng 7 năm 2002

Ngày ban hành báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm theo điều 21.5 lầnthứ hai:

20 tháng 12 năm 2002

Các bên thống nhất giải pháp ngày:

15 tháng 5 năm 2003

Bản tóm tắt cập nhập về vụ kiện 

Bản tóm tắt dưới đây được cập nhật ngày 24 tháng 2 năm 2010

Thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm

Do Mỹ và New Zealand khởi kiện.

Ngày 8 tháng 10 năm 1997, Mỹ yêu cầu tham vấn với Canada liên quan tới cáo buộc Canada trợ cấp xuất khẩu các sản phẩm sữa và vấn đề quản lý hạn ngạch thuế quan đối với sữa. Phía Mỹ cho rằng trợ cấp xuất khẩu của Canada đã làm biến dạng thị trường sản phẩm sữa và tác động bất lợi lên doanh số bán các sản phẩm sữa của Mỹ. Mỹ cáo buộc Canada đã vi phạm điều II, X và XI của GATT 1994, điều 3, 4, 8, 9 và 10 Hiệp định vê Nông nghiệp, điều 3 Hiệp định về Trợ cấp, điều 1, 2 và 3 Hiệp định về Cấp phép nhập khẩu.

Ngày 29 tháng 12 năm 1997, New Zealand yêu cầu tham vấn với Canada về một chương trình bị cáo buộc là trợ cấp xuất khẩu sản phẩm sữa, thường được gọi là chương trình “những loại sữa đặc biệt” (“special milk classes”). New Zealand cho rằng chương trình “những loại sữa đặc biệt” của Canada đã vi phạm điều XI của GATT, điều 3, 8, 9 và 10 của Hiệp định vê Nông nghiệp.

Ngày 2 tháng 2 năm 1998, Mỹ yêu cầu thành lập Ban hội thẩm cho vụ kiện WT/DS103. Tại cuộc họp ngày 13 tháng 2 năm 1998, DSB trì hoãn thành lập Ban Hội thẩm. Ngày 25 tháng 3 năm 1998, theo yêu cầu của Mỹ và New Zealand và căn cứ Điều 9.1 DSU, DSB quyết định thành lập một Ban Hội thẩm duy nhất giải quyết cả hai vụ việc WT/DS103 và WT/DS113. Ôxtrâylia và Nhật Bản tham dự với tư cách là bên thứ ba. Ngày 12 tháng 8 năm 1998, Ban Hội thẩm được thành lập. Báo cáo của Ban Hội thẩm được ban hành tới các thành viên ngày 17 tháng 5 năm 1999. Ban Hội thẩm kết luận rằng các biện pháp bị khiếu nại của Canada đã vi phạm những nghĩa vụ của nước này theo điều II:1(b) của GATT 1994, điều 3.3 và 8 của Hiệp định về Nông nghiệp khi cung cấp các khoản trợ cấp xuất khẩu như được miêu tả tại điều 9.1(a) và 9.1(c) của Hiệp định Nông nghiệp.

Ngày 15 tháng 7 năm 1999, Canada tuyên bố kháng nghị một số vấn đề về luật và diễn giải pháp lý của Ban Hội thẩm. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành đến các thành viên ngày 13 tháng 10 năm 1999. Theo đó, Cơ quan Phúc thẩm phán quyết:

  • bác bỏ diễn giải về điều 9.1(a) của Ban Hội thẩm, và do đó bác bỏ kết luận của Ban Hội thẩm cho rằng Canada đã vi phạm các nghĩa vụ của mình theo điều 3.3 và 8 Hiệp định Nông nghiệp.
  • tán thành kết luận của Ban hội thẩm cho rằng Canada đã vi phạm điều 3.3 và 8 của Hiệp định Nông nghiệp về trợ cấp xuất khẩu như liệt kê tại điều 9.1(c) Hiệp định Nông nghiệp.
  • bác bỏ một phần kết luận của Ban Hội thẩm rằng Canada đã vi phạm những nghĩa vụ của nước này theo điều II:1(b) của GATT 1994.

Tại cuộc họp ngày 27 tháng 10 năm 1999, DSB đã thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và của Ban Hội thẩm, đã điều chỉnh theo báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm.

Thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm theo điều 21.5

Ngày 16 tháng 2 năm 2001, Mỹ và New Zealand yêu cầu DSB chuyển các vấn đề liên quan đến việc thực thi báo cáo ban đầu cho Ban hội thẩm ban đầu giải quyết theo điều 21.5 DSU. Tại cuộc họp ngày 1 tháng 3 năm 2001, DSB đã chuyển vụ việc cho Ban hội thẩm ban đầu. Australia, Cộng đồng châu Âu và Mêhicô tham dự với tư cách là bên thứ ba. Ngày 12 tháng 4 năm 2001, Ban Hội thẩm được thành lập.

Ban Hội thẩm tuân thủ ban hành báo cáo ngày 11 tháng 7 năm 2001, kết luận rằng thông qua chương trình CEM và việc tiếp tục chương trình Những loại sữa đặc biệt, Canada đã không tuân thủ những nghĩa vụ của nước này theo điều 3.3 và 8 của Hiệp định Nông nghiệp với việc cung cấp các khoản trợ cấp xuất khẩu (theo định nghĩa tại điều 9.1(c) Hiệp định Nông nghiệp) vượt quá mức cam kết được xác định trong Kế hoạch xuất khẩu pho mát năm kinh doanh 2000/2001.

Ngày 4 tháng 9 năm 2001, Canada kháng nghị báo cáo của Ban Hội thẩm tuân thủ lên Cơ quan Phúc thẩm. Cụ thể, Canada đã kháng nghị lại kết luận cho rằng các biện pháp của Canada đã cấu thành trợ cấp xuất khẩu theo định nghĩa tại điều 9.1(c) Hiệp định về Nông nghiệp. Canada đánh giá kết luận của Ban Hội thẩm cho rằng chính phủ nước này đã tài trợ cho xuất khẩu thương mại là dựa trên những diễn giải sai lầm về mặt luật pháp Điều 9.1(c) nêu trên.

Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành tới các thành viên ngày 3 tháng 12 năm 2001. Cơ quan Phúc thẩm phủ định kết luận của Ban Hội thẩm tuân thủ rằng việc cung cấp CEM cho các hãng chế biến sữa nội địa của nhà sản xuất sữa trong nước là có bao gồm cả các khoản tiền trả cho việc xuất khẩu sữa “được tài trợ bởi chính phủ” theo điều 9.1(c) của Hiệp định Nông nghiệp. Cơ quan Phúc thẩm phán quyết rằng, căn cứ vào những kết luận xác thực và những chứng cứ thực tế trong hồ sơ của Ban Hội thẩm tuân thủ, không thể hoàn thành việc điều tra phân tích những khiếu kiện của New Zealand và Mỹ theo Điều 9.1(c) hoặc Điều 10.1 Hiệp định Nông nghiệp, hay là khiếu kiện của Mỹ theo điều 3.1 của Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng SCM. Tại cuộc họp ngày 18 tháng 12 năm 2001, DSB đã thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và báo cáo của Ban Hội thẩm tuân thủ.

Ngày 6 tháng 12 năm 2001, Mỹ lần thứ hai đệ đơn yêu cầu DSB thành lập một Ban Hội thẩm theo điều 21.5 DSU. Mỹ lập luận rằng do báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm theo điều 21.5 trước đó đã không có bất kỳ phán quyết nào về tính nhất quán của các biện pháp mới của Canada nên phía Mỹ vẫn cho rằng Canada đã không thực thi những khuyến nghị và phán quyết của DSB. Vào cùng ngày, New Zealand cũng ra yêu cầu tương tự.

Tại cuộc họp ngày 18 tháng 12 năm 2001, căn cứ điều 21.5 DSU, DSB chấp thuận lần thứ hai chuyển các khiếu nại của New Zealand và Mỹ cho Ban Hội thẩm ban đầu giải quyết. Tại cuộc họp này, Cộng đồng châu Âu và Ôxtrâylia tham gia vào quy trình làm việc của Ban hội thẩm với tư cách là bên thứ ba. Ngày 28 tháng 12 năm 2001, Achentina cũng tham gia vào với tư cách bên thứ ba.

Ngày 18 tháng 12 năm 2001, Canada lần lượt hoàn tất các Thỏa thuận sơ bộ bổ sung với New Zealand và Mỹ liên quan tới các thủ tục theo Điều 21 và 22 của DSU. Theo cả hai Thỏa thuận chung này, Canada và từng bên tranh chấp nhất trí yêu cầu cơ quan Trọng tài do Canada đề nghị theo điều 22.6 DSU tiếp tục tạm ngừng hoạt động trong khi chờ kết quả làm việc của Ban Hội thẩm tuân thủ

Ngày 17 tháng 1 2002, Ban Hội thẩm tuân thủ được thành lập. Ngày 26 tháng 7 năm 2002, báo cáo được ban hành tới các thành viên. Ban Hội thẩm kết luận rằng, thông qua kế hoạch CEM và việc tiếp tục chương trình Các loại sữa đặc biệt (Special Milk Class), Canada đã không tuân thủ những nghĩa vụ của mình theo điều 3.3 và 8 của Hiệp định Nông nghiệp với việc cung cấp các khoản trợ cấp xuất khẩu (theo định nghĩa tại điều 9.1(c) Hiệp định Nông nghiệp) vượt quá mức cam kết được xác định trong Kế hoạch xuất khẩu pho mát và “các sản phẩm từ sữa khác” của nước này. Bản báo cáo cũng kết luận rằng Canada đã không tuân thủ các nghĩa vụ theo điều 10.1 Hiệp định về Nông nghiệp, do vậy cũng không tuân thủ điều 8 của Hiệp định Nông nghiệp. Theo đó, Ban Hội thẩm khuyến nghị DSB yêu cầu Canada phải điều chỉnh cơ chế marketing các sản phẩm sữa cho phù hợp với các nghĩa vụ của nước này trong vấn đề trợ cấp xuất khẩu theo Hiệp định về Nông nghiệp.

Ngày 23 tháng 9 năm 2002, Canada tuyên bố kháng cáo lại một số vấn đề về luật và diễn giải pháp lý của Ban hội thẩm tuân thủ. Ngày 20 tháng 12 năm 2002, Cơ quan Phúc thẩm ban hành báo cáo. Trong đó giữ nguyên kết luận của Ban Hội thẩm rằng việc các nhà sản xuất sản phẩm sữa nội địa của Canada cung cấp “sữa thương phẩm xuất khẩu” (“CEM”) cho các nhà chế biến nội địa Canada là có bao gồm cả những gói trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức “các khoản chi trả” được tài trợ bởi chính phủ, như được định nghĩa tại Điều 9.1(c) của Hiệp định về Nông nghiệp. Cơ quan Phúc thẩm bác bỏ cách diễn giải của Ban Hội thẩm đối với các quy định về nghĩa vụ chứng minh trong Điều 10.3 của Hiệp định Nông nghiệp. Tuy nhiên Cơ quan Phúc thẩm phán quyết rằng sự sai sót này không làm ảnh hưởng đến các kết luận khác của Ban Hội thẩm theo Hiệp định Nông nghiệp. Do đã có kết luận theo điều 9.1(c) Hiệp định Nông nghiệp nên Cơ quan Phúc thẩm từ chối phán quyết về kết luận thay thế của Ban Hội thẩm theo điều 10.1 của Hiệp định này.

Ngày 17 tháng 1 2003, DSB thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và báo cáo của Ban Hội thẩm, đã điều chỉnh theo báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm.

Tình hình thực thi các báo cáo đã được thông qua

Tại của họp của DSB ngày 19 tháng 7 năm 1999, Canada tuyên bố sẽ tuân thủ theo các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Ngày 23 tháng 12 năm 1999, Canada thông báo với DSB rằng, căn cứ theo điều 21.3 của Thỏa thuận sơ bộ về Quy tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU) và sau khi đã được chấp thuận kéo dài thời hạn thực thi như được quy định trong điều 21.3(b) của DSU, nước này đã đạt được sự thỏa thuận chung với Mỹ và New Zealand về bốn giai đoạn riêng rẽ trong quá trình thực thi các báo cáo. Theo thỏa thuận thực thi thì Canada phải hoàn tất giai đoạn cuối cùng không muộn hơn ngày 31 tháng 12 năm 2000. Ngày 11 tháng 12 năm 2000, Canada, Mỹ và New Zealand thông báo với DSB rằng các nước này đã thỏa thuận ra hạn thời gian thực thi hợp lý đến ngày 31 tháng 1 2001.

Ngày 16 tháng 2 năm 2001, cả Mỹ và New Zealand yêu cầu DSB chuyển vụ việc cho Ban hội thẩm ban đầu căn cứ theo điều 21.5 của DSU. Tại cuộc họp ngày 1 tháng 3 năm 2001, DSB đã quyết định giao vụ việc này cho Ban Hội thẩm ban đầu giải quyết, nếu có thể. Ôxtrâylia, Cộng đồng châu Âu và Mêhicô tham dự với tư cách là bên thứ ba. Cũng vào ngày 16 tháng 2 năm 2001, cả Mỹ và New Zealand cùng yêu cầu DSB cho phép, theo điều 22.2 DSU, đình chỉ áp dụng giảm nhượng thuế quan và các nghĩa vụ liên quan khác theo GATT 1994 với Canada. Mỗi biện pháp sẽ áp dụng cho giá trị thương mại là 35 triệu đô la Mỹ và được tiến hành trên cơ sở hàng năm. Ngày 28 tháng 2 năm 2001, Canada phản đối mức độ đình chỉ và yêu cầu đưa vấn đề ra phân định bởi trọng tài theo điều 22.6 DSU. Trong cuộc họp ngày 1 tháng 3 năm 2001, DSB đưa vấn đề ra trọng tài.

Chi tiết quá trình tố tụng của Ban Hội thẩm theo điều 21.5 và Cơ quan Phúc thẩm: xem phần trên.

Ngày 6 tháng 12 năm 2001, Mỹ yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm theo điều 21.5 lần thứ hai. Mỹ lập luận rằng do báo cáo theo điều 21.5 của Cơ quan Phúc thẩm trước đó đã không có kết luận nào về tính nhất quán của các biện pháp mới của Canada, nên nước này vẫn tin rằng Canada đã không chấp hành theo những khuyến nghị và phán quyết ban đầu của DSB. Vào cùng ngày, New Zealand cũng có yêu cầu tương tự.

Trong cuộc họp ngày 18 tháng 12 năm 2001, DSB chấp thuận yêu cầu trên, theo Điều 21.5 DSU, lần thứ hai giao vụ kiện cho Ban Hội thẩm ban đầu giải quyết. Cộng đồng châu Âu và Australia tham gia hoạt động của Ban Hội thẩm với tư cách là bên thứ ba. Ngày 28 tháng 12 năm 2001, Achentina cũng tham gia với tư cách bên thứ ba.

Ngày 18 tháng 12 năm 2001, Canada lần lượt hoàn tất các Thỏa thuận sơ bộ bổ sung với New Zealand và Mỹ liên quan tới các thủ tục theo Điều 21 và 22 của DSU. Theo những Thỏa thuận chung này Canada và từng bên tranh chấp nhất trí yêu cầu cơ quan Trọng tài do Canada đề nghị theo điều 22.6 DSU tiếp tục tạm ngừng hoạt động trong khi chờ đợi kết quả làm việc của Ban Hội thẩm tuân thủ.

Chi tiết về hoạt động của Ban Hội thẩm theo điều 21.5 lần thứ hai và Cơ quan Phúc thẩm: xem phần trên.

Ngày 16 tháng 1 năm 2003, các bên liên quan thông báo với DSB răng họ đã yêu cầu rằng đã yêu cầu gia hạn thời gian tạm ngừng hoạt động của cơ quan Trọng tài đến ngày 7/2/2003 nhằm có thêm thời gian tham vấn. Ngày 6 tháng 2 năm 2003, các bên thông báo với DSB tiếp tục tạm ngừng hoạt động của Trọng tài đến ngày 10/4/2003. Ngày 9 tháng 4 năm 2003, các bên tranh chấp thông báo với DSB thời gian tạm ngừng hoạt động của Cơ quan Trọng tài tiếp tục gia hạn đến ngày 9/5/2003. Ngày 9 tháng 5 năm 2003, Canada lần lượt với Mỹ và New Zealand thông báo lên DSB rằng đã thống nhất được một giải pháp theo điều 3.6 của DSU cho các tranh chấp WT/DS103 và WT/DS113.

Các bên thống nhất giải pháp chung theo điều 3.6 DSU

Ngày 9 tháng 5 năm 2003, Canada lần lượt với Mỹ và New Zealand thông báo lên DSB rằng các nước này đã thống nhất được một giải pháp chung theo điều 3.6 của Thỏa thuận về Quy tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp DSU cho cả hai vụ việc..