Giải quyết tranh chấp số DS108

25/03/2011    410

Mỹ — Chính sách thuế đối với “Các doanh nghiệp bán hàng ra nước ngoài” (FSC)

Thông báo thực thi giải pháp được thống nhất từ ngày 17 tháng 5 năm 2006

Tiêu đề:

US — FSC

Nguyên đơn:

Cộng đồng châu Âu

Bị đơn:

Mỹ

Các bên thứ ba:

Australia; Barbados; Braxin; Canada; Trung quốc; Ấn độ; Jamaica; Nhật Bản

Các hiệp định được viện dẫn: (được nêu trong yêu cầu tham vấn)

Hiệp định Nông nghiệp: Điều 1, 3, 8, 9, 10; Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng: Điều 3.1(a), 3.1(b); GATT 1994: Điều III:4

 

Yêu cầu tham vấn ngày:

18 tháng 11 năm 1997

Ban hành báo cáo của Ban hội thẩm:

8 tháng 10 năm 1999

Ban hành báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm:

24 tháng 2 năm 2000

Ban hành báo cáo của Ban Hội thẩm theo điều 21.5:

20 tháng 8 năm 2001

Ban hành báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm theo điều 21.5:

14 tháng 1 năm 2002

Ban hành báo cáo của Trọng tài theo điều 22.6:

30 tháng 8 năm 2002

Ban hành báo cáo của Ban Hội thẩm theo điều 21.5 lần hai:

30 tháng 9 năm 2005

Ban hành báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm theo điều 21.5 lần hai:

13 tháng 2 năm 2006

Bản tóm tắt cập nhập vụ kiện 

Bản tóm tắt dưới đây được cập nhật ngày 24 tháng 2 năm 2010.

Xem thêm: Tóm tắt một trang các phán quyết chính của vụ kiện

Thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm

Do Cộng đồng châu Âu khởi kiện.

Ngày 18/11/1997, Cộng đồng châu Âu (EC) yêu cầu tham vấn với Mỹ liên quan tới phần 921-927 Bộ luật Thuế nội địa Hoa Kỳ và các biện pháp có liên quan quy định về chế độ thuế đặc biệt đối với các “Các doanh nghiệp bán hàng ra nước ngoài” (FSC). Cộng đồng châu Âu cho rằng những quy định này không phù hợp với những nghĩa vụ Mỹ theo điều III:4 và XVI của GATT 1994, điều 3.1(a) và (b) của Hiệp định về Trợ cấp, và điều 3 và 8 của Hiệp định về Nông nghiệp.

Ngày 1 tháng 7 năm 1998, EC yêu cầu thành lập Ban hội thẩm. Trong yêu cầu lập Ban hội thẩm, EC đã viện dẫn các điều 3.1(a) và (b) của Hiệp định về Trợ cấp, điều 3 và 8,9 và 10 của Hiệp định về Nông nghiệp, nhưng không viện tới GATT 1994. Tại cuộc họp ngày 23/7/1998, Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) đã trì hoãn việc thành lập Ban hội thẩm. Sau đó theo yêu cầu thứ hai của Cộng đồng châu Âu, DSB quyết định thành lập Ban Hội thẩm trong phiên họp ngày 22/9/1998. Barbados, Canada và Nhật Bản tham dự với tư cách là bên thứ ba. Ngày 9 tháng 11 năm 1998, Ban Hội thẩm được thành lập. Báo cáo của Ban được ban hành đến các thành viên WTO ngày 8 tháng 10 năm 1999. Ban Hội thẩm kết luận rằng, thông qua cơ chế FSC, Mỹ đã không tuân thủ các nghĩa vụ của nước này theo điều 3.1(a) Hiệp định về Trợ cấp cũng như các nghĩa vụ theo điều 3.3 Hiệp định về Nông nghiệp (và do đó cũng không tuân thủ các nghĩa vụ theo điều 8 của Hiệp định này).

Ngày 28 tháng 10 năm 1999, Mỹ tuyên bố quyết định kháng nghị lại một số vấn đề về luật và diễn giải pháp lý trong báo cáo của Ban hội thẩm. Ngày 2 tháng 11 năm 1999, Mỹ rút lại yêu cầu kháng nghị căn cứ theo Quy định 30 của Thủ tục xét phúc thẩm, đồng thời tuyên bố rằng việc rút đơn này tùy thuộc vào quyền được nộp đơn kháng nghị mới theo Quy định 20 của Thủ tục xét phúc thẩm. Ngày 26 tháng 11 năm 1999, Mỹ tuyên bố kháng nghị một số vấn đề luật và diễn giải pháp lý của Ban hội thẩm. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành tới các thành viên ngày 24 tháng 2 năm 2000. Theo đó, Cơ quan Phúc thẩm phán quyết rằng:

  • giữ nguyên kết luận của Ban Hội thẩm rằng cơ chế FSC là hình thức trợ cấp trái phép theo Điều 3.1(a) của Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng SCM.
  • hủy bỏ kết luận của Ban Hội thẩm rằng cơ chế FSC có bao gồm “việc cung cấp các khoản trợ cấp nhằm làm giảm chi phí marketing xuất khẩu” các sản phẩm nông nghiệp theo Điều 9.1(d) Hiệp định về Nông nghiệp, và do đó, hủy bỏ kết luận cho rằng Mỹ đã không tuân thủ nghĩa vụ của mình theo Điều 3.3 của Hiệp định về Nông nghiệp.
  • Mỹ đã không tuân thủ các nghĩa vụ của nước này theo Điều 10.1 và 8 của Hiệp định về Nông nghiệp khi tiến hành trợ cấp xuất khẩu thông qua cơ chế FSC theo một phương cách sẽ gây ra hoặc có thể dẫn tới vi phạm các cam kết về trợ cấp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp.
  • Cơ quan Phúc thẩm cũng nhấn mạnh rằng họ không phán quyết bắt buộc một Thành viên phải thay đổi một hệ thống thuế này bằng một hệ thống thuế khác nhằm tuân thủ các nghĩa vụ của Thành viên đó trong WTO.

Tại phiên họp ngày 20/3/2000, DSB thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và của Ban Hội thẩm, đã sửa đổi theo báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm.

Thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm theo điều 21.5

Ngày 7 tháng 12 năm 2000, Cộng đồng châu Âu (EC) thông báo với DSB rằng các cuộc tham vấn đã thất bại và yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm theo Điều 21.5 của DSU. Trong cuộc họp ngày 20 tháng 12 năm 2000, DSB chấp thuận chuyển vụ việc lại cho Ban Hội thẩm ban đầu. Australia, Canada, Ấn Độ, Jamaica và Nhật Bản tham dự với tư cách là bên thứ ba. Ngày 5 tháng 1 năm 2001, Ban Hội thẩm được thành lập. Ngày 21 tháng 12 năm 2000, theo một thỏa thuận giữa các bên, căn cứ theo điều 22.6 DSU, Mỹ và Cộng đồng châu Âu cùng yêu cầu cơ quan trọng tài tạm ngừng hoạt động cho đến khi thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm hoặc thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm nếu có kháng nghị. Do đó hoạt động trọng tài đã được đình chỉ.

Ngày 20 tháng 8 2001, báo cáo của Ban Hội thẩm tuân thủ được ban hành đến các thành viên. Ban Hội thẩm tuân thủ kết luận rằng việc bãi bỏ cơ chế FSC và ban hành Luật Loại trừ thu nhập từ nước ngoài năm 2000 (Extraterritorial Income Exclusion Act of 2000) (văn bản pháp quy về FSC sửa đổi) vẫn chưa phù hợp với các Điều khoản 3.1(a) và 3.2 của Hiệp định SCM, Điều 10.1 và 8 của Hiệp định về Nông nghiệp và điều III:4 của GATT 1994.

Ngày 15 tháng 10 năm 2001, Mỹ thông báo kháng nghị lại một số vấn đề về luật và diễn giải pháp lý của Ban Hội thẩm. Ngày 14 tháng 1 năm 2002, báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành tới các thành viên. Theo đó, Cơ quan Phúc thẩm:

  • tán thành kết luận của Ban Hội thẩm rằng Mỹ đã không tuân thủ những nghĩa vụ của nước này theo Hiệp định về Trợ cấp SCM, Hiệp định về Nông nghiệp và GATT 1994 dù đã sửa đổi các văn bản luật về FSC nhằm thực thi những khuyến nghị và phát quyết sơ thẩm của DSB trong vụ tranh chấp này;
  • liên quan tới quyền lợi của các bên thứ 3, Cơ quan Phúc thẩm phán quyết rằng Ban Hội thẩm đã sai lầm trong diễn giải Điều10.3 DSU khi từ chối qui định rằng tất cả những văn bản đệ trình của các bên tranh chấp nộp trước cuộc họp đầu tiên của Ban Hội thẩm đều phải được cung cấp cho các bên thứ ba.

Tại cuộc họp ngày 29/1/2002, DSB thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và của Ban Hội thẩm, được giữ nguyên theo báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm.

Ngày 13 tháng 1 năm 2005, EC thông báo với DSB rằng quá trình tham vấn đã thất bại và yêu cầu thành lập một Ban Hội thẩm theo điều 21.5 DSU. Trong cuộc họp ngày 25/1/2005, DSB trì hoãn thành lập Ban Hội thẩm. Tại cuộc họp ngày 17/2/2005, DSB đồng ý chuyến giao vụ việc lại cho Ban Hội thẩm ban đầu giải quyết.

Ngày 22 tháng 4 năm 2005, EC yêu cầu Tổng Giám đốc WTO xác định cơ cấu Ban Hội thẩm. Ngày 2 tháng 5 năm 2005, Tổng Giám đốc WTO đã xác định cơ cấu Ban Hội thẩm. Ngày 2 tháng 8 năm 2005, Ban Hội thẩm thông báo với DSB rằng căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc và kế hoạch làm việc được các bên tham vấn thống nhất, Ban Hội thẩm thấy không thể hoàn thành công việc trong vòng 90 ngày như dự tính theo Điều 21.5 mà dự kiến sẽ hoàn tất công việc vào tuần thứ hai của tháng 8.

Ngày 30 tháng 9 năm 2005, báo cáo của Ban Hội thẩm được ban hành đến các thành viên. Ban Hội thẩm kết luận rằng Mỹ đã không thực thi đầy đủ những khuyến nghị và phán quyết của DSB trong quá trình giải quyết tranh chấp ban đầu và hội thẩm tuân thủ lần đầu tiên. Ngày 24 tháng 11 năm 2005, Mỹ tuyên bố kháng nghị lên Cơ quan Phúc thẩm đối với một số vấn đề luật pháp được đề cập trong báo cáo của Ban Hội thẩm cũng như một số diễn giải pháp lý của Ban.

Ngày 10 tháng 1 năm 2006, Cơ quan Phúc thẩm thông báo cho DSB rằng căn cứ vào thời gian cần thiết để hoàn tất và dịch báo cáo, Cơ quan Phúc thẩm không thể công bố báo cáo trong vòng 60 ngày và dự tính báo cáo sẽ được công bố không muộn hơn ngày 13/2/2006. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được ban hành tới các thành viên ngày 13/2/2006. Trong bản báo cáo này, Cơ quan Phúc thẩm tán thành các kết luận của Ban Hội thẩm. Trong cuộc họp ngày 14 tháng 3 năm 2006, DSB đã thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và của Ban Hội thẩm.

Tình hình thực thi các báo cáo đã được thông qua

Ngày 7 tháng 4 năm 2000, căn cứ theo điều 21.3 của DSU, Mỹ thông báo với DSB rằng nước này sẽ thực thi các khuyến nghị của DSB với tinh thần tuân thủ những nghĩa vụ trong WTO. Theo yêu cầu của Mỹ, tại phiên họp ngày 12 tháng 10 năm 2000, DSB điều chỉnh thời hạn thực thi kết thúc vào ngày 1 tháng 11 năm 2000. Ngày 17 tháng 11 năm 2000, Mỹ tuyên bố rằng với việc thông qua bãi bỏ cơ chế FSC và Luật Ngoại trừ thu nhập từ nước ngoài, nước này đã thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Vào cùng ngày, Cộng đồng châu Âu tuyên bố quan điểm của mình cho rằng Mỹ vẫn chưa tuân thủ các khuyến nghị và phán quyết của DSB và yêu cầu Mỹ tham gia tham vấn với EC theo điều 4 và 21.5 Thỏa thuận về Quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp DSU, điều 4 Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng SCM, điều 9 Hiệp định về Nông nghiệp và điều XXIII:1 của GATT 1994. Cùng ngày 17 tháng 11 năm 2000, EC đề nghị DSB cho phép tiến hành những biện pháp đối kháng thích hợp và đình chỉ nhượng bộ theo điều 4.10 Hiệp định SCM và điều 22.2 DSU.

Theo một thỏa thuận giữa các bên tranh chấp, Mỹ có thể yêu cầu trọng tài giải quyết khiếu nại của Cộng đồng châu Âu và cơ chế trọng tài có thể được tạm hoãn cho đến khi Ban Hội thẩm tái lập đánh giá được mức độ tuân thủ của những quy định mới của Mỹ đối với báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và Ban Hội thẩm. Ngày 27 tháng 11 năm 2000, Mỹ yêu cầu đưa vấn đề ra trọng tài theo điều 22.6 của DSU. Ngày 7 tháng 12 năm 2000, Cộng đồng châu Âu thông báo với DSB rằng tham vấn đã thất bại và yêu cầu thành lập một Ban hội thẩm theo điều 21.5 DSU. Tại phiên họp ngày 20 tháng 12, DSB chấp thuận chuyển vụ việc cho Ban Hội thẩm ban đầu. Ngày 21 tháng 12 năm 2000, theo thỏa thuận giữa các bên, Mỹ và EC cùng yêu cầu cơ quan trọng tài theo điều 22.6 DSU tạm ngừng hoạt động cho đến khi thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm, hoặc báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm nếu có kháng án. Hoạt động trọng tài do đó tạm đình chỉ.

Chi tiết về quá trình tố tụng của Ban Hội thẩm theo điều 21.5 và Cơ quan Phúc thẩm: xem phần trên.

Trong cuộc họp ngày 29 tháng 1 năm 2002, DSB đã thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và báo cáo của Ban Hội thẩm, được giữ nguyên như kết luận trong báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm. Theo thỏa thuận mang tính thủ tục của các bên tranh chấp vào tháng 9 năm 2000 (WT/DS108/12), hoạt động trọng tài theo điều 22.6 về mức độ của các biện pháp đối kháng và việc đình chỉ nhượng bộ sẽ tự động tái khởi động.

Ngày 30 tháng 8 năm 2002, quyết định của Trọng tài được ban hành. Theo đó, Trọng tài xác định rằng việc đình chỉ những nhượng bộ của EC theo GATT 1994 thông qua hình thức áp đặt phí 100% trên giá nhập khẩu của một số hàng hóa từ Mỹ với giá trị tối đa là 4.043 triệu đô la Mỹ một năm, như trình bày trong yêu cầu của EC là những biện pháp đối kháng phù hợp theo nội dung điều 4.10 Hiệp định SCM.

Ngày 24 tháng 4 2003, EC đề nghị được phép đình chỉ nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác theo điều 22.7 DSU và điều 4.10 Hiệp định SCM. Tại cuộc họp ngày 7 tháng 5 năm 2003, DSB cho phép Cộng đồng châu Âu có các biện pháp đối kháng và đình chỉ nhượng bộ thích hợp.

Ngày 5 tháng 11 năm 2004, Cộng đồng châu Âu yêu cầu tham vấn theo điều 4 và 21.5 DSU, điều 4 Hiệp định SCM, điều 19 Hiệp định về Nông nghiệp và điều XXII:1 của GATT 1994 liên quan đến luật JOBS Creation năm 2004 của Mỹ có hiệu lực từ ngày 22/10/2004. Theo EC, luật JOBS được ban hành nhằm thực thi các khuyến nghị và phán quyết của DSB trong vụ kiện này (giai đoạn tuân thủ) nhưng đã không thực hiện được và vẫn vi phạm những quy định của WTO tương tự như văn bản luật trước đó. Cụ thể, Cộng đồng châu Âu cho rằng phần 101 của JOBS Act bao hàm những điều khoản chuyển tiếp cho phép các nhà xuất khẩu Mỹ tiếp tục hưởng lợi từ việc bãi bỏ cơ chế FSC và Luật Ngoại trừ thu nhập từ nước ngoài (a) với tất cả các giao dịch xuất khẩu năm 2005 và 2006 và (b) trong thời gian không xác định đối với một số hợp đồng, và do vậy không loại bỏ được trợ cấp và không thực thi được các khuyến nghị và phán quyết của DSB.

Ngày 17 tháng 11 năm 2004, Australia yêu cầu được tham gia tham vấn.

Ngày 13 tháng 1 năm 2005, Cộng đồng châu Âu thông báo với DSB rằng tham vấn đã thất bại và yêu cầu thành lập Ban hội thẩm theo điều 21.5 của DSU. Tại cuộc họp ngày 25 tháng 1 năm 2005, DSB trì hoãn thành lập Ban hội thẩm. Tại cuộc họp ngày 17 tháng 2 năm 2005, DSB chấp thuận chuyển vụ việc cho Ban hội thẩm ban đầu.

Cụ thể quá trình tố tụng của Ban Hội thẩm lần hai theo điều 21.5 và Cơ quan Phúc thẩm: xem phần trên.